Top 8 Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu hay nhất

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 4

Trong lời điếu văn đầy xót thương và cảm động đọc trước linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Dân tộc ta, nhân dân ta. non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”. 

Nhà thơ Tố Hữu cũng đã thể hiện điều đó trong một bài thơ khóc Bác – Bác – Bác ơi! là tiếng khóc tiễn biệt, là lời “điếu văn bi hùng” bằng thơ (Xuân Diệu). Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi đau xót và tiếc thương, mà còn là sự đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc đang tiếp diễn vô cùng gay go, quyết liệt, ngày 2- 9- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người qua đời là một tổn thất lớn lao đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong những ngày ấy, cả dân tộc ta và bạn bè quốc tế đã biểu lộ nỗi tiếc thương, nỗi đau xót vô hạn trước sự ra đi của Người. Trong những ngày ấy, “Đời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa.. 

Bác ơi! của Tố Hữu ra đời trong không khí những ngày đại tang ấy. Bài thơ như một bài “điếu văn bi hùng” thể hiện ở cả kết cấu, giọng điệu lẫn hình ảnh, ngôn ngữ thơ,… Tất cả đã bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương của tác giả đồng thời đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ mở đầu với khung cảnh đau buồn, tang tóc bao trùm lên toàn cõi Việt Nam trong những ngày mất Bác: 

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa 

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” 

Không hiểu sao trong những ngày Bác mất, trời mưa tầm tã. Phải chăng tổn thất lớn của dân tộc ta đã lay động đến cả trời xanh làm cho cao xanh kia cũng tuôn trào nước mắt? Hay chính là nước mắt của con dân Việt Nam khóc người cha già dân tộc đã thăng hoa, hòa vào vũ trụ và ngưng kết thành mưa? Nhà thơ đã đồng nhất “đời” và “trời” tạo thành một ý thơ có sức khái quát diễn tả nỗi đau lòng mình và nỗi đau dân tộc trước tổn thất quá lớn lao.

Đó là những giọt nước mắt nóng bỏng chất sử thi – một dân tộc anh hùng tiếc thương một anh hùng dân tộc. Nỗi tiếc thương khiến cỏ cây, đất trời bỗng trở nên bùi ngùi, tâm hồn người bỗng trở nên ngơ ngác: 

“Chiều nay con chạy về thăm Bác 

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa” 

Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh nhà Bác,… tất cả vẫn còn đây, nhưng tất cả đều thẫn thờ: 

“Con lại lần theo lối sỏi quen 

Đến bên thang gác đứng nhìn lên 

Chuông ôi chuông nhỏ còn reo 

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!…

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai 

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài 

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm 

Quanh mặt hồ in mây trắng bay” 

Đoạn thơ với rất nhiều câu hỏi và câu cảm thán. Những dấu hỏi, dấu cảm, dấu chấm lửng, những thán từ cùng với cách ngắt nhịp chậm, nhịp dài ngắn đan xen đã diễn tả một cách xúc động nỗi tiếc thương nghẹn ngào trong lòng nhà thơ. Bài thơ với lối kết cấu như một bài điếu văn cổ điển (lung khỏi- thích thực- ai vãn). 

Tính cổ điển trong kết cấu đã nâng hình tượng thơ và cảm xúc của nhà thơ lên tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là hình tượng của muôn đời và cảm xúc của muôn người. Hình tượng Bác hiện lên trong nỗi tiếc thương vô hạn xen lẫn niềm kính phục thiêng liêng. 

Phần thứ hai của bài thơ thể hiện những suy ngẫm, những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chi Minh: Người là tình yêu bao la, Người mang nỗi lo ” muôn mối như lòng mẹ”, Người “nâng niu tất cả chỉ quên mình”, Người luôn mang hình bóng miền Nam trong trái tim, Người “Một đời thanh bạch, chẳng vàng son”,… 

Đoạn thơ với chất giọng trầm hùng bi tráng, với những hình ảnh vừa giản dị. vừa lớn lao rất phù hợp với hình tượng Bác Hồ và nỗi tiếc thương, niềm thành kính của nhà thơ đối với Bác. Còn gì đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi nhà thơ dùng hình tượng trái tim để biểu tượng cho tình cảm bao la của Bác: “Bác ơi, tim Bác mênh mông thếÔm cả non sông, mọi kiếp người”. Còn gì giản dị gần gũi hơn và cũng bao dung trời biển hơn khi nhà thơ so sánh tấm lòng của Bác với tấm lòng của người mẹ: 

“Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ 

Cho hôm nay và cho mai sau”

“Bác sống như trời đất của ta”, 

Bác đem “Tự do cho mỗi đời nô lệ” và Bác còn “Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”, Bác dành sữa cho em thơ và tặng lụa cho người già. Con người của “trời đất”, của “tự do” được lồng trong con người của đời thường. Con người vĩ đại Hồ Chí Minh hòa vào con người bình thường Hồ Chí Minh tạo nên một vẻ đẹp vừa lớn lao, vĩ đại vừa gần gũi, thân thiết. Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt đối với miền Nam. 

Bác nói: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”. Để đáp lại lòng mong mỏi của cháu con trong Nam, Bác đã dự định sẽ vào thăm nhưng dự định chưa kịp thực hiện thì… Tố Hữu đã so sánh: 

“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà 

Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” 

Nỗi nhớ thương miền Nam của Bác giống như “nỗi nhớ nhà” và nỗi mong ngóng Bác của miền Nam giống như “nỗi mong cha”. Nỗi nhớ thương gắn với nỗi đau chia cắt thân mình Tổ quốc và khát vọng thống nhất, đoàn tụ. Câu thơ diễn tả một thứ tình cảm rất gia đình nhưng ý thơ vượt lên câu chữ để diễn tả một vấn để mang tính sử thi của thời đại và dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh suy tưởng mang tính khái quát cao mà vẫn chan chứa cảm xúc: 

“Bác để tình thương cho chúng con 

Một đời thanh bạch chẳng vàng son 

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng 

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”. 

Bác để lại nhiều: độc lập, tự do, cơm no, áo ấm,… Nhưng tất cả đều xuất phát từ một thứ vô cùng quý giá: “tình thương”- “Bác thương các cụ già”, “Bác thương đàn cháu nhỏ”, “Bác thương đoàn dân công”,… Bác thương dân, yêu nước nên đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Đúc kết cuộc đời Bác, nhà thơ chiêm nghiệm và nhận thấy hai phẩm chất nổi bật: tình yêu thương quên mình và sự giản dị thanh cao. 

Tác giả dùng hình tượng “áo vải” mong manh để nói về “một đời thanh bạch”, thể hiện phẩm chất giản dị mà thanh khiết vô ngần của Bác. Bác là vậy, giản dị mà vĩ đại, “áo vải” mà “hồn muôn trượng”. Đoạn thơ với rất nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã thể hiện một cách sâu sắc những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tố Hữu đã vĩnh hằng hóa, bất tử hóa hình tượng Bác Hồ trong thiên nhiên, đất trời và trong lòng người. Đoạn thơ thể hiện niềm cảm phục thành kính, niềm tự hào thiêng liêng trước anh linh của vị cha già dân tộc. Trong niềm xúc động, niềm cảm phục và tự hào, nhà thơ đã thay mặt con dân nước Việt thầm nói lên lòng mình: 

“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều 

Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu! 

Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước..”

Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều”. 

Và thầm hứa với Bác:

 “Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn 

Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn 

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi 

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”. 

Biến đau thương thành hành động, cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên thực hiện di chúc của Bác. Sáu năm sau ngày Bác đi xa. chúng ta đã “đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào”, đem lại hòa bình, thống nhất, nối liền một dải non sông và xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trong số rất nhiều những bài thơ viết về Bác, cùng với trường ca Theo chân Bác, Bác ơi! là một thành công lớn của nhà thơ Tố Hữu. 

Bài thơ là niềm xúc động dâng trào và những chiêm nghiệm sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già dân tộc, người anh hùng vĩ đại của thế kỉ XX. Bác ơi! là bài thơ khóc Bác nhưng đó là những dòng nước mắt nóng bỏng chất sử thi.

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 7

Nhà thơ Cuba Felix Pita Rodríguez đã từng viết: “Hồ Chí Minh tên Người là cả một niềm thơ”. Sau ngày Bác mất, thơ tưởng niệm về Bác có hàng trăm bài, bài nào xúc động, thành kính, thiêng liêng. Trong vườn thơ dâng Bác, có lẽ bài “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương) và “Bác ơi” (Tố Hữu) là gần gũi nhất đối với bạn đọc.

Bài thơ “Bác ơi” thể hiện những cảm xúc của nhà thơ Tố Hữu khi hay tin Bác đã ra đi. “Viếng lăng Bác” ra đời khi nhà thơ Viễn Phương cùng đoàn cán bộ Nam lần đầu ra Bắc thăm lăng Bác. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện những cảm xúc thiết tha, chân thành của tác giả dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong tâm tưởng của nhà thơ Tố Hữu và Viễn Phương và của nhân dân cả nước, Bác vẫn hiện diện trong đời sống của chúng ta đang đồng hành cùng sự nghiệp chung của dân tộc. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại khoảnh khắc nhà thơ Viễn Phương đang ở lăng, niềm tiếc thương Bác trào dâng mãnh liệt đọng lại thành mấy dòng:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên 

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

“Giấc ngủ bình yên” là cách nói giảm nói tránh, nhà thơ tự xoa dịu nỗi đau mất Bác, rằng Bác đang ngủ, giấc ngủ thanh thản của một người cách mạng vừa làm xong nhiệm vụ với dân với nước. Đến thăm lăng Bác có cả nghìn người nhưng ai cũng khẽ khàng không muốn đánh động giấc ngủ bình yên của Bác. Ánh đèn vàng ấm áp tỏa lan khắp gian phòng khiến tác giả ngỡ là ánh sáng dịu hiền của vầng trăng.

Tố Hữu viết bài thơ “Bác ơi” viết khi Bác đã mất khi mà sự nghiệp cách mạng của hai miền Nam – Bắc đang trên đà thắng lợi. Ngày thống nhất đất nước không còn xa nữa, đồng bào miền Nam tưởng như đang chạm vào giấc mơ:

“Miền Nam đang thắng mở ngày hội 

Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười”.

Bác không còn nữa nhưng trong tâm tưởng mỗi người, trên từng chặng đường chiến đấu, ta vẫn có Bác đồng hành. Ngày hội non sông với bản hòa ca chiến thắng ta vẫn có Bác là nhạc trưởng. Người đã chuẩn bị cho cuộc sum họp này đã lâu.

Bằng tình cảm chân thành, các tác giả đã nói hộ tấm lòng của nhân dân hai miền Nam, Bắc dành cho lãnh tụ Hồ Chí Minh: thành kính biết ơn Người.

Bác mất – niềm đau lớn của toàn dân tộc — Viễn Phương và Tố Hữu đã diễn tả được điều đó một cách xúc động và chân thành trong hai khổ thơ. “Viếng lăng Bác”: Trong các khổ thơ trên, tác giả dùng hình ảnh vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ để ca ngợi công ơn của Bác và mong muốn Bác luôn hiện diện trong đời sống của chúng ta mãi mãi. Bác đang ẩn mình trên bầu trời xanh mênh mông dịu mát để tiếp tục đồng hành với chúng ta trong sự nghiệp giữ nước, dựng nước.

“Biết” bằng lí trí, còn trong tình cảm thì “bảy mươi chín mùa xuân” đã dừng lại đó. Câu thơ vỡ òa niềm đau: “Mà sao nghe ở trong tim “Nhói” diễn tả nỗi đau trong tiềm thức, nỗi đau xoáy sâu trong tâm hồn, tác giả đã nói hộ cho con tim của cả dân tộc. Bởi Bác mất đi là một mất mát quá lớn của dân tộc. Chúng ta hiểu và chấp nhận điều này trong đau khổ tột cùng.

Đọc Thêm:  Top 8 Mẫu laptop tốt nhất dành cho dân lập trình hiện nay

“Bác ơi”: Nhà thơ Tố Hữu về thăm ngôi nhà sàn của Bác, nơi từng in dấu chân Người. Bác đã đi xa, tác giả cũng cảm thấy bơ vơ. Cả vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hương nhài… tất cả đều côi cút, còn biết thơm ngọt cùng ai… Câu thơ nghẹn ngào nỗi tiếc thương:

“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!

Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời

Hình ảnh “mùa thu”, “nắng xanh” gợi ta nhớ đến bóng Bác năm xưa in trên bầu trời quảng trường Ba Đình trong một ngày mùa thu tháng Tám với “Tuyên ngôn độc lập”. Mùa thu năm nay Bác không còn, còn nồi đau nào hơn thế đối với mồi trái tim người Việt Nam.

Có người nói rằng “Thơ là thư kí trung thành của ti tim”. Nhà thơ Tố Hữu và Viễn Phương đều đã từng sống và chiến đấu dưới ngọn cờ của Bác nên hiểu Bác hơn ai hết và tình cảm dành cho Bác rất thiết tha, mãnh liệt. Tình cảm đó đã dệt nên những vần thơ đẹp, bất tử với thời gian

Về nghệ thuật: Cả hai đoạn thơ đều sử dụng những hình ảnh giản dị, giàu ý nghĩa, giọng điệu câu thơ thành kính thiêng liêng phù hợp với đề tài ca ngợi lãnh tụ. Tuy nhiên, chính sự chân thành trong tình cảm làm nên thành công của tác phẩm.

Về nội dung: Hình ảnh Bác hiện ra trong hai khổ thơ vừa vĩ đại lại vừa giản dị gần gũi. Tình cảm của các tác giả dành cho Bác cũng là tình cảm chung của muôn triệu đồng bào : biết ơn Người, tiếc thương Người.

Viếng lăng Bác (Viễn Phương) và Bác ơi! (Tố Hữu) đã đem đến cho người đọc biết bao niềm nhớ thương đối với bác Hồ Kính yêu. Dù hôm nay, Người đã mãi mãi ra đi nhưng tình cảm của người, hình ảnh của người vẫn mãi ấm áp và ngời sáng trong lòng dân tộc.

Càng kính yêu Người chúng ta càng phải sống xứng đáng với những kì vọng mà lúc sinh thời Người luôn mong mỏi là làm thế nào để đất nước ngày càng vững mạnh, có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 5

“Bác để tình thương cho chúng con 

Một đời thanh bạch chẳng vàng son 

Mong manh áo vải hồn muôn trượng 

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”

(Bác ơi)

Chiều ngày 2/9/1969, khi nghe tin Bác mất, Tố Hữu đang điều trị ở bệnh viện, vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn của Bác lặng lẽ dưới mưa. Trở về, Tố Hữu viết “suốt cả đêm ấy cho vơi nỗi buồn”. “Bác ơi” được viết ngay sau sự kiện đau thương của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc, tiếng tiếc thương và là bản hùng ca, ca ngợi nhân cách, công lao, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bài thơ có mười ba khổ, đoạn phân tích là khổ thứ mười ca ngợi cuộc đời trong sáng, cao đẹp của Bác Hồ. Bác Hồ không còn nữa. Dân tộc ta mất đi một người Cha già, cách mạng Việt Nam mất đi một vị lãnh tụ. Đau thương nào lớn hơn? Tố Hữu với cái buồn đau vô hạn ấy đã thể hiện lòng vô cùng yêu quý Bác bằng những vần thơ khóc thương và ca ngợi. Suốt cuộc đời Bác, Bác dành tất cả tình thương cho nhân dân quên mình vì lí tưởng độc lập dân tộc. Tố Hữu đã đúc kết vào trong suy nghĩ của mình bao điều ông từng chiêm nghiệm về Người.

Mở đầu khổ thơ: “Bác để tình thương cho chúng con”, đó là một ý thơ được lấy từ một ý trong Di chúc của Bác: “cuối đời tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn thể đồng bào”. Câu thơ ca ngợi tình nhân ái bao la của lãnh tụ Hồ Chí Minh với toàn thể nhân dân. 

Trái tim Người thật mênh mông, khiến cho Người không giây phút nào được thảnh thơi: lo dân, lo nước, thương nhân loại năm châu, thương mọi kiếp người nô lệ, thương Miền Nam còn trong tay giặc. Không phải chỉ thương suông mà thương đi liền với lo, lo cho tất cả lại lo riêng cho mỗi kiếp người cụ thể: “Sữa để em thơ, lụa tặng già”. 

Tình thương của Bác bao trùm cả không gian, thời gian “cho hôm nay và cho mai sau”, bao trùm cả thiên nhiên cây cỏ, chia sẻ đến “từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa”. Suốt đời Bác thương nước, thương đời trong lúc thức và trong cả những cơn mơ. Nói về tình thương của Bác, Tố Hữu nói bằng giọng thơ thật giản dị và với cách xưng hô: “Bác”, “chúng con” đã thể hiện sự thân mật, gắn bó giữa nhân dân và lãnh tụ.

Sinh thời, tâm tư tình cảm của Người chỉ biết dành cho tất cả, lo cho tất cả, mà không nghĩ đến bản thân mình. Lúc ra đi vẫn bộ quần áo ka ki giản dị, không một tấm huy chương, huân chương trên ngực. Đúng là “một đời thanh bạch chẳng vàng son”. Câu thơ ca ngợi lối sống thanh bạch, nhân cách trong sáng của Bác. Tác giả dùng chữ “thanh bạch” đối lập với chữ “vàng son” đặt trong câu thơ nhằm đối lập giữa cuộc sống thật của Bác (người đứng đầu Đảng và Nhà nước XHCN) với cuộc sống xa hoa của một số bậc vua chúa phong kiến trước đây. Bác sống một cuộc sống thanh bạch, giản dị, từ chối mọi hư danh.

Đứng trước cái chết, ai cũng vậy dường như đều muốn trở thành nhà triết học. Những lúc ấy trong đầu óc thường nảy ra những ý nghĩ có tính chất tổng kết về một đời người, một kiếp người. Ta hiểu vì sao trong bài “Bác ơi” có thể tìm thấy những ý nghĩ khái quát sâu sắc của Tố Hữu về bản chất con người Bác. Và câu thơ trên là một chiêm nghiệm về Bác của Tố Hữu.

Tiếp theo câu “mong manh áo vải hồn muôn trượng” là câu thơ ca ngợi về lối sống giản dị khiêm nhường của Bác, đồng thời cũng đề cao sự vĩ đại cao đẹp trong tâm hồn Người. Ở Bác luôn có sự thống nhất, hài hoà giữa hai phẩm chất: bình thường mà vĩ đại, dung dị mà thiêng liêng. Để diễn tả điều đó, Tố Hữu đã dùng hai hình ảnh rất đạt: “áo vải” và “hồn muôn trượng” để diễn tả sự khẳng định. 

Một con người luôn khiêm nhường mà luôn vĩ đại cao cả, từ lời nói đến hành động. Bác nói “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” và đã lo cái lo của nhân dân, cũng từng nhịn bữa góp gạo kháng chiến. Trước khi Người vội đi xa, Người còn muốn nghe những làn điệu dân ca mọi miền, trong đó có dân ca miền Trung – cái nôi làng Sen quê hương Bác mãi là tinh hoa văn hoá của dân tộc.

“Hơn tượng đồng phơi những lối mòn” bằng nghệ thuật so sánh, tác giả khẳng định sự bất hủ của các giá trị tinh thần mà Bác để lại cho dân tộc. Ở đây có hình ảnh “tượng đồng phơi những lối mòn”, những bức tượng đồng nhằm lưu danh các vĩ nhân đặt tại các vườn hoa, khu kỉ niệm, nơi thường có nhiều người qua lại, chiêm ngưỡng. Bác Hồ của chúng ta như ẩn mình đi, rất khiêm nhường nhưng vẫn hơn “tượng đồng phơi những lối mòn”. 

Lời tổng kết về một nhân vật vĩ đại như Bác Hồ không thể không bao hàm sự liên tưởng so sánh với những tên tuổi khác. Tác giả muốn đúc tượng đồng bia đá để trở thành bất tử. Sinh thời, Bác không thích tượng đồng bia đá, không nhận bất cứ huân huy chương nào. Nhưng “mong manh áo vải hồn muôn trượng”, Người sẽ sống mãi trong lòng dân tộc, hơn những ai đó tượng đồng bia đá đúc mà không người viếng thăm để chúng phải “phơi” mặt bên “những lối mòn” vắng vẻ.

Tác giả đã thay mặt chúng ta dựng tượng đá Bác bằng thơ trong lòng mỗi người dân nước Việt. Chúng ta hứa nguyện xứng đáng với Bác, quyết tâm làm theo Di chúc của Bác, tiến bước theo con đường của Người.

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 8

“Bác ơi” là một bài thơ của nhà thơ Tố Hữu viết về vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta. Vào ngày 2-9-1969, Bác đã mãi mãi ra đi, bỏ lại sau lưng cả giang sơn, cả đất nước, cả đồng bào để đi vào cõi vĩnh hằng. Người ta kể lại rằng hôm Bác mất, trời mưa rất to, cả dân tộc Việt Nam cùng khóc tiếc thương cho vị cha già của dân tộc. 

Bác đi rồi, cả một cuộc đời vì dân vì nước, chưa bao giờ Bác suy tính điều gì cho chính bản thân mình. Vậy mà khi đất nước đã giành được độc lập, cả mong ước vào thăm miền Nam của Bác cũng không bao giờ thực hiện được. Lúc bác mất người dân thương tiếc đến độ những người chưa làm thơ cũng làm thơ về Bác.

 Bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu được coi như một bài điếu văn tiễn biệt người ra đi, và ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã dồn hết tâm can của mình để tưởng nhớ và tiếc thương Bác. “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa”.

 “Mấy hôm” ở đây chính là những ngày sau khi bác mất, đây là nỗi đau lớn của dân tộc Việt Nam, mới hôm qua đây thôi, Bác còn khỏe mạnh, còn chỉ đạo anh em cán bộ, nào ngờ từ năm 1965, Bác nói rằng đã tự nhìn thấy ngày phải vĩnh biệt cõi đời. Bác Hồ một đời luôn nghĩ cho dân cho nước lại có thể suy nghĩ như vậy, thực khiến cho ai cũng cảm thấy xót xa. 

Bước sang năm 1969, sức khỏe của Bác đã không còn tốt nữa, nhưng trong những vần thơ Bác viết, vẫn chứa đựng niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Hà Nội vào thu trời trở lạnh, ngày 18-8-1969, nhà sàn đã lần cuối cùng được hơi ấm của Bác Hồ. 

Ngày 24-8-1969, Bác ốm nặng, nhưng vẫn lo lắng cho vạn vật ngoài kia, Bác biết nước lên cao, các chiến sĩ ngỏ ý muốn đưa Bác đến nơi an toàn hơn, nhưng Bác vẫn một mực muốn ở lại với nhân dân. Bác lịm đi nhiều lần, nhưng mỗi lần tỉnh lại, Bác luôn luôn hỏi miền Nam đánh thắng đâu, giá như dòng chảy lịch sử có thể nhanh hơn một chút, có thể đẩy nhanh chiến thắng để có thể tiễn Bác ra đi thanh thản.

Ngày 2-9-1969, Bác trút hơi thở cuối cùng, đúng vào ngày Bác đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Mấy ngày sau đó cả dân tộc như nấc nghẹn, trọn một cuộc đời Bác có bao giờ được ngủ yên, bây giờ Bác ngủ cả giang sơn canh Bác ngủ. “ Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”

 Trong những ngày Bác mất, cả dân tộc Việt Nam, cả những chiến sĩ trước giờ chưa hề rơi nước mắt vì súng bom khói lửa, bây giờ ai nấy đều bưng mặt khóc như đứa trẻ con, tiếng khóc cất lên nghẹn ngào, có một nỗi đau to lớn len lỏi vào từng trái tim những người dân Việt Nam cũng như bạn bè khắp năm châu. 

Mấy ngày tiễn Bác trời mưa tầm tã, đất trời dường như hòa chung vào nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam. Đó là một nỗi mất mát, nỗi đau khôn nguôi của cả dân tộc. Hàng triệu con người hướng về Hà Nội, hướng về một con người như dòng suối mát, thanh khiết, trong sáng như tấm lòng của Bác đối với con dân Việt Nam.

“ Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa”

 Nhà thơ về thăm Bác, nhưng ôi thôi, Bác còn đâu nữa, Bác đã đi về miền cực lạc, không kịp nữa rồi, giờ chỉ còn lại cảnh vật. Nhà sàn, vườn cau, gốc dừa vẫn còn đó, nhưng người nay đã không còn, hơi ấm của người cũng đã dứt, để lại cái lạnh lẽo cho cảnh vật, cho tác giả, cho cả dân tộc. 

Bác đến với cuộc đời với màu áo nâu sần, nay Bác ra đi với bộ quần áo trắng, một con người luôn luôn sống tiết kiệm, giản dị cho đến những giây phút cuối đời. Lúc này đây, trên thế giới, không kể màu da, tiếng nói đều đang hướng trái tim về hòa cùng nỗi đau cùng mấy mươi triệu đồng bào ta đưa tiễn vị cha già của dân tộc. 

Đọc Thêm:  Top 3 Shop bán giày thể thao đẹp nhất quận 4, TP. HCM

Bác Hồ đã ra đi, Tố Hữu đã thốt lên tiếng gọi như xé lòng “Bác ơi!” nghe đau xót biết bao nhiêu. Bác đã ra đi nhưng niềm trăn trở của Bác đã được dân tộc thành toại. Bác sống mãi trong lòng của mỗi người dân chúng ta.

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 6

Bác Hồ mất (2-9-1969) nhân dân cả nước và thế giới xúc động, đau đớn, tiếc thương vô hạn. Nhiều nhà thơ đã làm thơ viếng Bác. Mỗi bài thơ là cả tấm lòng của thi nhân tưởng niệm vị lãnh tụ kính yêu. Nhưng có lẽ bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu là bài thơ cảm động nhất, hay nhất! Cũng dễ hiểu, Tố Hữu tài lớn hơn mà tình (lòng yêu mến, kính trọng, tiếc thương vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc) cũng lớn hơn.

Thơ tuôn chảy theo nguồn cảm xúc dào dạt một cách tự nhiên, hồn nhiên, không dụng công, không kĩ xảo:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa 

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…

Chiều nay con chạy về thăm Bác 

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!”

Nhà thơ chỉ nói sự thật của lòng mình, của “lòng trời” mà chấn động tâm hồn người đọc. Mấy câu thơ mở đầu bài “Bác ơi!” gợi cho ta nhớ lại những ngày ướt át, đau buồn đó. Bác Hồ vừa mất, trời đổ mưa kéo dài suốt tuần lễ. Hàng triệu người đi viếng Bác trong mưa lạnh, không còn phân biệt được nước mưa hay nước mắt. Nhà thơ Tố Hữu “chạy về” từ bệnh viện, đến bên thang gác, nghẹn ngào:

“Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!”

Nhạc thơ đã nói lên tất cả. Câu thơ cắt nhịp 2/2/3 (phòng lặng/ rèm buông / tắt ánh đèn) đứt đoạn, tức tưởi, đau đớn! Bác đã đi rồi! Làm sao nhà thơ có thể tin được điều đau lòng đó? Cuộc sống quanh Bác vẫn nguyên lành, tươi đẹp “Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời”, bao nhiêu tin tưởng, bao nhiêu hi vọng của nhân dân miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu! Nhà thơ cảm thấy yếu đuối trước mất mát to lớn của dân tộc, một chút mềm lòng thành kính đó cũng rất đáng quý:

“Trái bưởi kia vàng ngọt với ai 

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!”

Mới đó mà vị lãnh tụ đã trở thành người thiên cổ, trong hoài niệm của thi nhân, Người đi như trong cõi tiên:

“Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm 

Quanh mặt hồ in mây trắng bay…”

Nhà thơ nghĩ thương Bác, một đời chỉ biết lo toan cho thiên hạ:

“Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi 

Năm canh bớt nặng nỗi thương đời”

Và nhà thơ ca ngợi vị lãnh tụ kính yêu:

“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế 

Ôm cả non sông, mọi kiếp người”

Nhà thơ ca ngợi trái tim yêu thương “mênh mông” của Bác. Chính nguồn tình cảm cao quý này đã tạo ra sức mạnh vô biên cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Và Tố Hữu đã khái quát thành hai dòng tình cảm lớn là tình yêu nước (ôm cả non sông) và lòng thương người (mọi kiếp người). Tìm hiểu con người Bác và thơ Bác, chúng ta càng thấy khái quát của Tố Hữu thật là sâu sắc. Rồi tác giả mở rộng những khía cạnh của hai dòng tình cảm lớn đó:

“Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau 

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu”

Nỗi đau của Bác là “nỗi đau dân nước”, nhân dân còn lầm than, Bác “đau”, đất nước còn chia cắt, Bác “đau”. Bác còn “đau” vì nhiều dân tộc của “năm châu” còn bị nhiều ách xiềng xích, Bác còn đau vì sự chia rẽ của phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ.

Mỗi một nhận định, một minh chứng của Tố Hữu vừa có giá trị khái quát lại vừa cụ thể sinh động, làm nổi bật những khía cạnh tình cảm và tư tưởng phong phú của vị lãnh tụ:

“Bác sống như trời đất của ta 

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa 

Tự do cho mỗi đời nô lệ 

Sữa để em tha, lụa tặng già.”

Tố Hữu cũng hiểu thấu nỗi lòng của Bác đối với miền Nam nên đã dành hẳn một khổ thơ để diễn tả tình cảm sâu nặng của Bác đối với nhân dân miền Nam và tình cảm thiêng liêng của nhân dân miền Nam đối với Bác:

“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà 

Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha 

Bác nghe từng bước trên tiền tuyến 

Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa. ”

Tố Hữu đã cảm nhận được điều bao trùm và hết sức cơ bản trong cách sống của Hồ Chí Minh: con người ấy đạt đến cái tự nhiên như trời đất, tức là đã hòa đồng với tự nhiên, đã đạt đến cái cao sâu huyền diệu của sự sống. Và vì thế mà cũng trường tồn với trời đất. Phải chăng đó chính là ngọn nguồn sâu xa của niềm vui, tinh thần lạc quan và lẽ sống quên mình của Bác:

“Bác vui như ánh buổi bình minh 

Vui mỗi mầm non, trái chín cành 

Vui tiếng ca chung hòa bốn biển 

Nâng niu tất cả, chỉ quên mình”

Tố Hữu sống gần gũi với Bác Hồ, hiểu sâu sắc con người và hoạt động của Bác, được “tỏa sáng” bởi đạo đức, tác phong của Người nên trong những giây phút xúc động, nhà thơ đã cô đúc lại trong hình thức ngôn ngữ giản dị, trong sáng thành những lời rung động lòng người:

“Bác để tình thương cho chúng con 

Một đời thanh bạch, chẳng vàng son 

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng 

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”

Đoạn kết của bài thơ, cũng là nỗi tiếc thương vị lãnh tụ quá cố, những xúc động đã dịu đi, lí trí hơn, tình được nén lại, “nghĩa nặng”:

“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều. 

Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!

Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước….”

Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều.”

Những chi tiết trong Di chúc của Bác như “Còn non nước…”, “Mác Lênin” thể hiện sự suy nghĩ của nhà thơ về trách nhiệm của những người kế tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người, đồng thời cũng nói lên lòng trung thành của nhà thơ, người chiến sĩ cách mạng đối với vị lãnh tụ đã khuất. Nhà thơ tin tưởng vào sự trường tồn của sự nghiệp cách mạng mà Người đã gầy dựng và nguyện vươn lên vững chắc:

“Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn 

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi 

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”

Bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu xúc cảm dào dạt không bi lụy, lí trí sáng suốt đã chế ngự được tình cảm đau thương tang tóc. Hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc hiện lên trong thơ với đầy đủ phẩm chất cao quý như tình yêu nước, lòng thương người, tác phong giản dị hòa hợp với thiên nhiên, “một đời thanh bạch chẳng vàng son”. 

Bằng nhạc điệu trang nghiêm, bằng hình tượng thơ hoành tráng, bằng triết lí nhân bản, sâu sắc. nhà thơ đã truyền đến người đọc niềm thương yêu, tôn kính vị lãnh tụ. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: Bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu là một “điếu văn bi hùng”.

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 10

Viết về Bác Hồ, với Tố Hữu là xây dựng hình tượng con người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu nhất, kết tinh phẩm chất dân tộc qua nhiều thời đại.

Con người có lí tưởng và lẽ sống cao cả: lí tưởng giải phóng dân tộc, lí tưởng độc lập tự do vì thế, lẽ sống của Bác là sống bằng tình thương, luôn lo cho dân nước: 

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu,

Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ

Cho hôm nay và cho mai sau…

Cách điệp ngữ dưới nhiều hình thức để chúng khắc sâu vào tâm khảm người đọc, người nghe. Lời điệp trong thơ Tố Hữu luôn xoáy vào các nốt nhạc chủ âm của tư tưởng và tâm hồn. Hai câu trên nói về nỗi đau, nỗi đau được chia cho “nỗi đau dân nước”, nỗi “năm châu”. Hai câu sau nói về nỗi lo, nỗi lo cũng được chia ra, lo “hôm nay” và lo “mai sau”. Nỗi đau, nỗi lo vừa là biểu hiện của lẽ sống, vừa là biểu hiện của tình thương.Tình thương ủa Bác được diễn tả bằng hình ảnh thơ có chứa sức gợi lớn lao:

“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông, mọi kiếp người” 

Tình thương ấy gắn liền với tình yêu, ân nghĩa như song sinh. Bác Hồ yêu nhân dân bằng thứ tình cảm trong trẻo như không khí, trời xanh, ân nghĩa như cơm ăn, áo mặc, ấm cúng như máu mủ ruột rà.Bác sống như trời đất của ta:

Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha 

Hình ảnh ví von trong thơ Tố Hữu rất tiêu biểu cho tư duy thơ của ông. Ví von không làm cho sự vật, con người cụ thể hơn mà là khái quát hơn, cao hơn, trừu tượng hơn và bóng bẩy hơn. Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc với những chiến công để đi gần tới hòa bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người. Bác Hồ sống khiêm tốn, giản dị và hi sinh quên mình.

Nâng niu tất cả chỉ quên mình

Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch, chẳng vàng son

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. 

Cách lập ý biểu cảm trong những hình ảnh thơ này là phép tương phản. Sự tương phản đều xoáy vào sự đối lập của các ý thức xã hội. Tương phản trong đoạn thơ không chỉ xây dựng trên sự liên tưởng của các hình ảnh đối lập mà còn mang hình thức tư duy, lập luận, rõ ràng. Yếu tố lôgíc nổi lên, nằm cùng dãy với yếu tố hình tượng làm câu thơ mang tính chất hùng biện mạnh mẽ.

Tương phản thứ nhất: Nâng niu tất cả/ chỉ quên mình là tương phản giữa số lượng tất cả/chỉ để thể hiện sự thống nhất trong tính cách, phẩm chất đạo đức của Bác: tình thương là cơ sở của lẽ sống, là thước đo phẩm giá, đạo đức con người.

Tương phản thứ hai: áo vải /hồn muôn trượng. Đó là tương phản về vật chất và tinh thần, biểu hiện của thanh và tục, cái cao cả và cái thấp hèn. Hình ảnh thơ trên đã biểu thị cái ưu thế tuyệt đối của tinh thần so với vật chất. Vật chất rất đơn sơ giản dị, tương phản với tâm hồn cao cả bất diệt, thể hiện một chất thơ vượt lên tồn tại vật chất, thể hiện sự khiêm tốn, giản dị trong vật chất, giá trị sống của con người Bác Hồ.

Tái hiện lại hình tượng Bác Hồ, Tố Hữu đã dựng lại chân dung tinh thần của Bác Hồ với quan niệm con người thiên nhiên, chân dung Bác chẳng những được tái hiện gắn bó làm một với cây cỏ, trời mây, sông núi Việt Nam, hơn thế Bác còn là hiện thân cho lẽ sống tự nhiên của trời đất Việt Nam: “Bác sống như trời đất của ta”. Tâm hồn Bác “mênh mông”, “ôm cả non sông mọi kiếp người”. 

Tình cảm của Bác là thứ tình cảm tự nhiên của cha mẹ với con cái, tình cảm gia đình. Bác “lo muôn mối như lòng mẹ”, “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà. Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”, “Bác vui như ánh buổi bình minh”…Hình tượng Bác Hồ thật vĩ đại mà gần gũi với mỗi người dân Việt qua tiếng thơ Tố Hữu.

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 9

Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Trong dịp lễ quốc tang lãnh tụ vĩ đại, bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu được giới thiệu trên báo “Nhân dân”, sau này in trong tập thơ “Ra trận”. Bài thơ gồm có 52 câu thơ thất ngôn, chia đều thành 13 khổ thơ. 

Bốn khổ đầu thể hiện nỗi đau thương bao trùm sông núi và lòng người. Sáu khổ thơ giữa ca ngợi công đức to lớn của Bác Hồ. Ba khổ thơ cuối nói lên nổi thương tiếc Người và nguyện thực hiện lời Bác dặn. Đây là khổ thơ thứ 7 nằm trong phần 2 bài thơ “Bác ơi!”:

Đọc Thêm:  Top 3 Tiệm trang điểm cô dâu đẹp nhất huyện Bình Chánh, TP. HCM

“Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già”.

Đoạn thơ đã ca ngợi tầm vóc và tâm hồn cao cả, lớn lao; tình yêu thương mênh mông của Bác Hồ kính yêu. Mỗi câu thơ là một khám phá, một nét vẽ tuyệt đẹp tâm hồn của Bác. Giọng thơ trang trọng, trang nghiêm. Câu thơ thứ nhất là một so sánh, một lời ngợi ca khẳng định: “Bác sống như trời đất của ta”.

“Trời đất của ta” là quê hương đất nước, là xứ sở thân yêu cửa ta vô cùng tươi đẹp, rộng lớn và vĩnh hằng. Cuộc đời “79 mùa xuân” và đời sống tinh thần của Bác được so sánh với “trời đất của ta” nhằm ca ngợi tầm vóc lớn lao và cao cả của Người. 

Đó là sự nghiệp cách mạng cứu nước cứu dân, là lí tưởng và đạo đức cách mạng của Bác Hồ. Đó là một tâm hồn trong sáng, thanh cao, thoát khỏi mọi ràng buộc của danh lợi vươn tới cái vô cùng, cái cao cả. Là một chiến sĩ “Mong manh áo vải, hồn muôn trượng”. Là một con người Việt Nam mang cái tên đẹp “Ái Quốc” đã “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”. Lấy thiên nhiên để so sánh với con người là một cách nói quen thuộc của nhân dân ta. Ca ngợi công cha nghĩa mẹ, ca dao có câu:

“Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông”.

Trong nhiều bài thơ viết về Bác Hồ, với lối nói ấy, Tố Hữu đã sáng tạo nên nhiều câu thơ tuyệt đẹp:

“Bác ngồi đó lớn mênh mông

Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non”.

           (Sáng tháng năm)

“Bác ơi!

Thôi đập rồi chăng? một trái tim

Đỏ như sao Hỏa, sáng sao Kim!”.

           (Theo chân Bác)

Ba câu thơ tiếp theo nói lên lẽ sống cao đẹp và trái tim yêu thương mênh mông của Hồ Chủ tịch hướng tới năm đối tượng đều vì cuộc sống con người. Bác “yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa”. Hai vế tiểu đối: “từng ngọn lúa // mỗi cành hoa” là biểu tượng vể mỗi nét đẹp của thiên nhiên, về mỗi thành quả của cuộc sống cần lao, về cái đẹp trong cuộc đời. Tất cả đều được Bác chăm chút, quan tâm. 

Đó là cách nói ẩn dụ về tình yêu sâu sắc của Bác đối với Đất nước, nhân dân. Câu thơ thứ ba “Tự do cho mỗi đời nô lệ” nói lên lẽ sống cao đẹp của Người. Yêu tự do và chiến đấu cho tự do: “Tự do cho đồng bào tôi, tự do cho Tổ quốc tôi” là ý nguyện suốt đời của Bác. 

Câu thơ của Tố Hữu đã nói lên sâu sắc cái gốc nhân ái, cái “ham muốn tột bực” của Người “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Tự do là lí tưởng cao đẹp của Hồ Chủ tịch. 

Trong “Tuyên ngôn độc lập”, Người đã viết: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Sự thật, Người không chỉ mang lại tự do cho dân tộc Việt Nam ta, mà còn góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành lại tự do cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì thế, câu thơ của Tố Hữu còn mang tầm khái quát: “Hồ Chí Minh là lương tâm của thời đại”.

Câu thơ cuối đoạn cũng có hai vế tiểu đối thể hiện tình yêu thương mênh mông của Bác Hồ hướng tới hai lứa tuổi cần được quan tâm đặc biệt trong xã hội là em thơ và các cụ già Việt Nam: “Sữa để em thơ, lụa tặng già”.

Chữ “để” có nghĩa là “để giành cho”. Chữ “tặng” thể hiện một tấm lòng, một cách ứng xử vô cùng trân trọng quý mến. Với tuổi thơ Việt Nam, Bác đã dành cho tất cả tình thân yêu. San sẻ một ánh trăng thu sáng ngời. Nhiều cái hôn Bác dành cho các cháu gần xa. Các vị lão giả cao niên “xưa nay hiếm” chắc đều đã về cõi thiên thu, nhưng những chiếc áo lụa Bác Hồ tặng các cụ, vẫn mãi mãi là kỉ vật thiêng liêng mà con cháu gìn giữ đến muôn đời mai sau?

Cả ba câu thơ đều viết dưới hình thức liệt kê và đối xứng, tựa như những trang đời của Bác Hồ được dần mở rộng ra. Và mỗi chúng ta tưởng như đang mở rộng tầm mắt và tâm hồn chiếm lĩnh dần “hương nhân ái” Hồ Chí Minh, như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:

“Đoá hoa sen mặt đất tỏa hương trời

Hương nhân ái thấm vào hồn ta mãi”.

Đoạn thơ trên đây của Tố Hữu không có hình tượng mĩ lệ, nhưng đọc lên, “tình thơ, hương thơ, hồn thơ” cứ quyện lấy lòng ta mãi. Tố Hữu đã dùng cách nói bình dị, hồn nhiên để thể hiện cái cao cả vĩ đại, đó là tâm hồn và nhân cách cao đẹp Hồ Chí Minh. Các vị ngữ được sử dụng: “sống”, “yêu”, “cho”, “tặng” – đã cho thấy ngòi bút nhuần nhị, tinh tế của Tố Hữu khi viết về Bác Hồ kính yêu. Đoạn thơ trên đã trở thành câu hát của mỗi chúng ta khi nhắc đến tên Người với niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn.

Bài văn phân tích bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu số 2

Chiều ngày 2/9/1969, tin Bác Hồ mất đến với Tố Hữu khi ông đang điều trị ở bệnh viện. Ông vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn thân quen. Trời mưa tầm tã, xung quanh vắng lặng. Lòng trĩu buồn, đêm hôm ấy ông ngồi viết bài thơ này. Xuân Diệu cho đây là bài “điếu văn bi hùng”. Bài thơ thể hiện nỗi đau thương tột độ và sự cảm nhận bao quát về cuộc đời, phẩm chất và đức độ của lãnh tụ.

Hai câu thơ đầu, nhà thơ nhắc đến không khí đau buồn bao trùm đất nước, tạo ra chất bi hùng của sự kiện Bác mất. Cả nước khóc thương Người:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa…

Hình ảnh người con vắng Bác lúc đầu mang tâm trạng trống vắng bơ vơ dáng dấp, bước chân thẫn thờ trông thật tội nghiệp:

Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Không gian nơi Bác ở cũng nhuốm màu tang thương li biệt:

Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!

Hoa lá cỏ cây vắng hơi Người cũng ngơ ngơ ngác ngác:

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!

Tác giả sử dụng bút pháp quen thuộc với thơ ca truyền thống, gởi tâm trạng vào cảnh vật, từ ngoại cảnh mà thấy bức tranh tâm trạng, tâm hồn – sự trống vắng hụt hẫng, nỗi thương lớn lao khi mất Bác. Ngôn ngữ đối thoại nội tâm làm cho chân dung nhân vật trữ tình hiện lên chân thực, tự nhiên. Dòng thơ tuôn chảy một cảm xúc dạt dào. Cảm xúc đau buồn tạm nguôi ngoai, nhà thơ nhắc đến chân dung lãnh tụ, những tâm sự vui buồn của Người khi còn sống:

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.

…Bác vui như ánh buổi bình minh

Vui nỗi mầm non trái chín cành (…)

Từ đó mà ý thơ chiêm nghiệm tổng quát:

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông trọn kiếp người.

…Nâng niu tất cả chỉ quên mình.

Ở lãnh tụ có bao phẩm chất cao đẹp nhưng tình thương và đức hi sinh của Người đã làm nên sự vĩ đại và bất tử. Tình nhân ái của Người vừa cụ thể thiết thực: sữa để em thơ, lụa tặng già vừa bao quát cả nhân loại còn khổ đau: nỗi năm châu – sự chia rẽ của phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ. 

Biện pháp so sánh tấm lòng của Bác như lòng mẹ làm cho hình tượng lãnh tụ vừa gần gũi vừa cao cả trong tình thương. Những dòng thơ vừa có cảm xúc dạt dào vừa cô đọng, khái quát về lí tưởng sống của Người. Phong cách lối sống của Người khiến ai cũng phải ngưỡng mộ: Bác sống như trời đất của ta.

Khi đã thấu hiểu lòng người và lẽ trời thì con người sẽ có cách ứng xử phù hợp với tự nhiên nên hòa hợp với thiên nhiên. Con người ấy đã hòa nhập với tự nhiên vì đạt được những cái tự nhiên, nghĩa là đạt đến cái huyền diệu cao sâu của sự sống. 

Và khi ấy con người sẽ nhận được sự nâng đỡ của tự nhiên để trường tồn cùng trời đất: Đó là ngọn nguồn sâu xa trong tinh thần lạc quan yêu đời của Bác, sinh thời Bác rất yêu thiên nhiên cây cỏ, chim muông và thích được sống giữa thiên nhiên. Cách ứng xử ấy biểu hiện bên ngoài của sự hòa đồng với trời đất.

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi giữa lối mòn.

Nghĩ đến dân, đến nước mà không hề nghĩ đến mình là sự hi sinh và đức độ còn sống giản dị là hòa nhập với tự nhiên và là phong cách, phẩm chất trong sáng. Suốt cuộc đời người tận tụy hi sinh vì nước đến mức quên mình , còn bản thân Người sống đạm bạc, thanh sạch, cao khiết và rất mực giản dị. 

Tấm gương đạo đức và nhân cách ấy làm cho Người trở nên vĩ đại giữa đời thường và bất tử trong lòng dân tộc, trở thành biểu tượng về con người Việt Nam đẹp nhất mọi thời đại. Những câu thơ giàu cảm xúc của Tố Hữu đã đạt đến sự cô đọng hàm súc và sức khái quát về nhân cách và lối sống Hồ Chí Minh. Ba khổ thơ cuối bài, cho dù tấm lòng có tiếc nhớ nhung nỗi buồn đã khuây khỏa nên tâm hồn bừng sáng lên niềm tin khi nghĩ về tương lai:

Bác đã lên đường theo tổ tiên

Mác-Lê nin thế giới Người Hiền

Ánh hào quang đỏ thêm sông núi

Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!

Nguyện theo con đường, lí tưởng mà Bác đã chọn, tiếp tục cuộc hành trình nên nhà thơ thấy vững vàng, cứng rắn hơn khi nghĩ rằng Bác luôn bên cạnh:

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.

Âm hưởng đoạn thơ cuối điềm tĩnh, sâu lắng. Tình thương dạt dào đã lắng lại nên trí tuệ lắng kết một chân lí. Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn. Trước kia, trong bài thơ Sáng tháng Năm, Tố Hữu cũng đã thấy: “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta / Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”. 

Đây là vẻ đẹp, sức cuốn hút kì diệu của lãnh tụ và ánh sáng tinh hoa của một nhân cách lớn có sức mạnh chinh phục, có tác dụng thanh lọc tâm hồn, nâng cao sức mạnh cho người đối diện. Sau này nhà thơ Việt Phương cũng viết:

Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt,

Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường.

(Muôn vàn tình thân yêu bao trùm lên khắp quê hương)

Cuối bài thơ là niềm tin vào sự trường tồn của lãnh tụ trong sự nghiệp cách mạng, trong sự trường tồn của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc cao cả làm bất tử một con người cao cả.

Xem Clip Review, Chia Sẻ Thông Tin Đáng Chú Ý

✅ Top Đánh Giá ⭕ Dịch Vụ Tốt
✅ Top Review Sản Phẩm Tốt
✅ Top Bình Luận Tin Tức Mới
✅ Top Chia Sẻ Kiến Thức Hay
✅ Top Trường Hợp Đúng và Sai
Rate this post

Related Posts

Để lại một bình luận