Top 8 Bài văn phân tích đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ Trọng Phụng

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 8

Nhắc đến thể loại tiểu thuyết của nền văn học Việt Nam hiện đại ta không quên nhắc đến tác phẩm lừng danh “Số đỏ” làm nên tuổi của nhà Vũ Trọng Phụng. Cuốn tiểu thuyết đã phát huy cao độ tài năng đả kích, châm biếm sắc sảo của tác giả trước những trò lố lăng, bịp bợm của xã hội thực dân phong kiến ở nửa đầu thế kỉ XX. Đặc sắc nhất, ấn tượng nhất là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã tái hiện một đám tang bất thường của những con người với thái độ và tình cảm bất thường trước linh hồn người đã khuất.

Điều bất thường đó được thể hiện ngay ở nhan đề của đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”. Theo như lệ thường gia đình có người mất, vĩnh biệt cõi tạm trở về vĩnh viễn với cõi âm phải đau buồn, thương xót, bi ai nhưng ở đây lại là hạnh phúc. Một hạnh phúc khó diễn tả cho hết, hạnh phúc ấy chảy trong từng mạch máu của mỗi con cháu trong dòng họ từ người lớn đến trẻ nhỏ. Điều ấy đi ngược với giá trị đạo đức, với tình thương của con người.

Điều bất thường của đám tang được làm nên bởi thái độ của những người thân yêu trong gia đình. “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”, họ coi đây là một cơ hội hiếm có, một thời cơ đã đến để mỗi người có dịp thể hiện ước muốn của bản thân.

Cụ cố Hồng đứa con lớn của cụ cố Tổ trong lúc tang gia bối rối, ông vẫn ung dung nằm mơ màng nghĩ đến lúc mình được “mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ úi kìa con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Thật là đứa con đứt ruột đẻ ra, chăm nom nuôi dưỡng nay lại mang tội bất hiếu với bố. Nhưng điều ấy chẳng có gì lạ thường khi mà tất cả mọi người đều như vậy nên nó trở thành bình thường.

Văn Minh (cháu nội) đã từng du học bên Tây về nước chẳng có lấy một mảnh bằng cấp chỉ chăm chăm vào việc chia tài sản, mong cho tờ di chúc được đi vào thực thi là khi cụ cố Tổ chết nên ông ta vui lắm, mừng lắm. Việc làm ngay đó của ông là mời luật sư đến để chứng kiến cái chết của ông nội cũng là mong di chúc được thực hiện. 

Trong lúc tang gia vẻ mặt đăm đăm chiêu chiêu, vò đầu rứt tóc của ông thật hợp tình hợp lí nhưng thực chất là đang băn khoăn suy nghĩ không biết nên đối xử như thế nào cho phải vì một cái ơn to, hai cái tội nhỏ của Xuân. Nguyễn Tuân đã nhìn thấu cái tâm can, bụng dạ của con người mang danh có học thức của một nhà cải cách xã hội ấy vậy mà lại vô tâm vô tình chỉ quan tâm đến tiền bạc và danh vọng hão.

Cậu Tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp để trổ tài nghệ thuật thể hiện mình như một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp bởi có cơ hội sử dụng “mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến”. Riêng cháu rể quý Phán mọc sừng thì khấp khởi hạnh phúc vì được bố vợ nói nhỏ vào tai sẽ đền bù cho thêm số tiền vài nghìn đồng bởi chính ông cũng không thể ngờ rằng đôi sừng vô hình trên đầu lại có giá trị đến thế.

Đám dâu con như bà Văn Minh, cô Tuyết thì “bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp”. Họ hồ hộp, mong chờ đến giây phút trình diễn thời trang trong đám tang. “Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mẫn trắng viền đen”, cô Tuyết đã trưng diện sẵn bộ quần áo Ngây thơ là “cái áo dài voan mỏng, bên trong có cooc sê trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội cái mũ mấn xinh xinh” với nét mặt buồn lãng mạn mang vẻ mặt của người trong gia đình có tang.

Không khí tang ma thì như ngày hội lớn mọi người mọi nhà sum họp. Đây là chi tiết trào phúng gây cười ra nước mắt trong suốt hoạt cảnh tang gia. Đám tang mà người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám…Tang gia đấy nhưng ai cũng vui vẻ hạnh phúc cả. Một đám tang rất to có đầy đủ kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa… có đầy đủ loại người trong xã hội từ cảnh sát cho đến sư sãi, từ thằng hạ lưu giả danh nhà cải cách xã hội cho đến nhà thiết kế thời trang, già trẻ gái trai đủ cả. 

Họ đến đám tang để phô diễn chiến công và sự giàu sang của mình. Đó là Xuân tóc đỏ_người yêu cô Tuyết, con ma cà bông đội lốt nhà cải cách xuất hiện đem theo hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư sãi. Điều này khiến cho cụ cố Hồng rất vui mừng hạnh phúc và cũng biết ơn vô cùng bởi đã góp phần làm cho đám tang càng thêm sang trọng để thể hiện sự giàu có của gia đình.

Sự xuất hiện của Xuân càng tô đậm vẻ hợm hĩnh, phô trương, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên cao khiến cho người đọc phải bàng hoàng, bỡ ngỡ. Những người bạn của cụ cố đến đưa đám không phải để chia buồn mà cốt để khoe huân chương trên ngực, đám trai thanh gái lịch ở nơi tang tóc mà vẫn có thể làm những trò lố lăng vừa đi đưa đám vừa “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau…” 

Đến khi hạ huyệt chôn cất thân xác của người chết để họ về hơi an nghỉ cuối cũng là lúc bi ai, đau xót nhất ấy vậy mà con người ta diễn nó thật lố bịch. Nhà văn đã lia ống kính quay cận cảnh hạ huyệt với từng nét mặt của những con người. Cậu Tú Tân thì bẻ từng người thế nọ, thế kia để tạo dáng chụp ảnh kỉ niệm, những người bạn thì nhảy lên các mộ khác để chụp cho ảnh khỏi giống nhau, cụ cố Hồng vừa ho khạc vừa mếu máo, giả tạo giỏi nhất là Phán khóc hứt hứt oặt người đi mãi không thôi nhưng vẫn không quên dúi vào tay Xuân tờ năm đồng gấp làm tư để giữ chữ tín cho cuộc giao thương. 

Chỉ một vài chi tiết nhỏ nhưng có giá trị nghệ thuật cao nó càng làm rõ thêm mục đích đến đám tang của những người thân.Vũ Trọng phụng đã vạch trần bộ mặt giả dối của những con người không có tình yêu thương đồng loại thản nhiên, vui vẻ trước cái chết. Theo như nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: “Đây là cái bi của người chết, cái hài của xã hội, cái vô phúc của gia đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người”.

Bằng ngòi bút trào phúng tài năng nhà văn Vũ Trọng Phụng đã bóc trần một xã hội nhố nhăng với những thói hư tật xấu làm mất đi sự văn minh, tiến bộ và giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Bút pháp phóng đại mà không như phóng đại, nghệ thuật khắc họa nhân vật với các chi tiết điển hình làm nổi bật lên chân dung đặc điểm của mỗi người, lối viết văn rất sáng tạo và độc đáo làm nên giá trị của đoạn trích để lại nhiều ấn tượng cho độc giả về xã hội thiếu tình người lúc bấy giờ.

“Trên trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng càng chân thành bấy nhiêu. Con người ấy không giết quá một con muỗi. Nhưng thật kì diệu, văn chương của con người ấy làm cho kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.” 

Đúng là như vậy con người ấy có những trang viết thật tài tình đã tái hiện lại bức tranh xã hội đang buổi giao thời Đông Tây lố bịch, cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch, một bức tranh biếm họa vô cùng đã cho người đọc thấy một đám ma to làm cho “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu” tất cả những điều khác thường theo luân lí đạo đức mà lại bình thường trong hoàn cảnh xã hội bấy giờ được sắc nét lại qua ngòi bút của một giọng văn mỉa mai, đả kích sâu sắc làm nên giá trị của tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 2

Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế ki XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn tượng là chương Hạnh phúc của một tang gia.

Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng náo, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi người đều vui như Tết: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.

Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta buổi ấy. Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.

Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…

Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân thời và đội cái mũ mấn trắng viền đen… để quảng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.

Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn. Cụ cố Hồng mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm, ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa.

Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!

Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa nay., Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay… đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu, vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…

Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hoá mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn, rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán, não nùng. 

Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ… Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loàn quản…

Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma (!) Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và dối trá.

Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà văn lạnh lùng bình luận: Đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu. Thật là mỉa mai, chua chát!

Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả, tự lừa mình và lừa người. Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. 

Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp những bức biếm họa trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức lòe loẹt, om sòm kia đều trở thành vô nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô đạo đức.

Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố Hồng càng thêm sung sướng: Ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với hắn.

Mấy chi tiết đặc tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch mà bận tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy, gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. 

Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức. Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết ông ta rất mừng vì được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.

Qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc.

Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 6

Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!

Nghệ thuật trào phúng, suy cho cùng, là nghệ thuật phát hiện và diễn tả được những cái bất thường, kỳ dị chứa đựng trong nó mâu thuẫn trào phúng, rồi cường điệu, phóng to những cái bất thường, kỳ dị ấy lên để gây cười. Viết về cái “tang gia” “hạnh phúc” trong tiểu thuyết của mình, nhà văn của “rừng cười nhiệt đới” đã tỏ ra rất thoải mái, ung dung trong khi làm chủ thứ nghệ thuật này. Thậm chí, ông còn nắm được nhiều bí quyết tạo tiếng cười. Chỉ cần đọc kĩ một chương, chương XV chẳng hạn, cũng thấy rõ điều này.

Đọc Thêm:  Top 6 Shop bán giày bóng đá chất lượng nhất tại TP. HCM

Nội dung chương truyện có thể tóm tắt như sau: Cụ Tổ họ Hồng đã ngoài tám mươi tuổi mà cứ “sống mãi” (!) Đám con cháu hám danh hám lợi trong nhà chỉ mong cho ông lão này sớm chết. Ước mong này thành hiện thực khi Xuân Tóc Đỏ – trong một lần “nổi giận” vì tự ái, đã om sòm “tố cáo” trước mặt mọi người rằng ông Phán dây thép, cháu rể cụ Tổ (chồng cô Hoàng Hôn) là “một người chồng mọc sừng”. Việc tố cáo đó – thực ra, do ông Phán dây thép thuê Xuân làm với giá 10 đồng – đã trực tiếp gây ra cái “chết thật” của cụ cố Tổ và có cái đám tang kì lạ này.

Tên đầy đủ của chương truyện này có vẻ rườm rà và thiếu mạch lạc một cách đầy dụng ý: Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một đám ma gương mẫu. Thật là một cái tên xứng với những gì mà nhà văn miêu tả, trần thuật và muốn nói trong chương truyện. Nó chứa đựng cái bất thường mang mâu thuẫn trào phúng (“Hạnh phúc của một tang gia…”.), nó dự báo những bất đồng giữa “phái trẻ”, “phái già” cần phải hòa giải (Văn Minh nữa cũng nói vào…), và nó bao hàm cả cái “chuẩn mực” đáng hãnh diện và đáng cho những đám ma khác phải noi theo (Một đám ma gương mẫu).

Tuy nhiên, chỉ riêng sáu chữ Hạnh phúc của một tang gia thôi cũng đã cô đặc trong đó những cái bất thường và những mâu thuẫn trào phúng của toàn bộ màn hài kịch hoành tráng mà các nhân vật Số đỏ đang diễn trong chương này.

Mất người thân là mất mát không gì bù đắp được, nỗi buồn của tang gia thường được xem là nỗi buồn sâu sắc nhất – thành ngữ dân gian thường ví von “buồn như cha chết”, “buồn như nhà có đám”; còn chủ nhân những nhà có đám tang thường được xem là “khổ chủ” – cho nên, hai chữ tang gia thường gợi lên cả một cộng đồng gia đình khổ đau, bất hạnh.

Nhưng cái tang gia này thì lại không thế: Cả tang gia ai cũng hạnh phúc, vui sướng. Niềm hạnh phúc, vui sướng toát ra từ không khí và bức tranh toàn cảnh của đám tang, đặc biệt là những nhận xét, những lời bình, lời kể hài hước của tác giả, kiểu như “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm” hay “tang gia ai cũng vui vẻ cả”, “người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma”,… được sử dụng khá dày đặc trong đoạn trích.

Niềm hạnh phúc, vui sướng của tang gia, khi thì lộ liễu, khi lại kín đáo, toát ra từ từng khuôn mặt khôi hài, tạo thành những bức biếm họa độc đáo. Ông Phán-mọc-sừng, ông cháu rể “quý hóa” của “người chết” thì sung sướng vì với sự giúp đỡ của Xuân Tóc Đỏ, kế hoạch tận dụng sự hoang dâm tai tiếng của vợ ông làm vũ khí “đào mỏ”, đã thành công mỹ mãn không ngờ. Nhờ có cái “chết thật” của ông nội vợ mà ông cháu rể này “đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”. Chính ông ta cũng “không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế”.

Cụ cố Hồng, ông con trai trưởng “chí hiếu” của “người chết” thì sung sướng đến ngây ngất, vì nhờ cái “chết thật” của cha mình, nhờ có đám tang này mà cái danh giá sang trọng của ông sẽ được nâng lên nhiều bậc. Cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: – Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa!”. Và, “cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế…”.

Văn Minh (chồng), ông cháu đích tôn “chí hiếu” của “người chết” thì chỉ nóng lòng “mời luật sư đến chứng kiến cái chết của ông nội mà thôi”. Ông sung sướng, vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mình mà “cái chúc thư” chia của kia sẽ có hiệu lực thật sự “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”.

Rồi, cậu Tú Tân sung sướng vì nhờ cái “chết thật” của ông nội mà sắp được dùng đến mấy cái máy ảnh mới mua; Văn Minh (vợ) sung sướng bởi sắp được chưng diện mốt tang phục mới; ông Typn sung sướng bởi được báo chí lăng xê các mẫu thời trang mà ông dày công thiết kế cho đám tang, v.v.

Con cháu trong nhà, mỗi người một niềm hạnh phúc riêng đã đành, ngay đến các ông cảnh sát Min Đơ, Min Toa cũng nhờ cái “chết thật” của cụ tổ mà được thơm lây: họ “sung sướng cực điểm”, “vì được có đám thuê”, “đã trông nom rất hết lòng”. Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng và vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo…”

Cụ bà thì “sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đám, phúng viếng đến thế, và đám ma như thế kể đã là danh giá nhất tất cả”. Đó là chưa kể, các “giai thanh gái lịch” Hà thành, nhờ có đám tang mà được “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau,…”; các quý ông “tai to mặt lớn” thì được dịp phô diễn râu ria đủ kiểu trên cằm trên mép, khoe huân chương, huy chương đủ hạng trên ngực, trên mình v.v.

Thậm chí, đến cả “cụ tổ” cũng nhờ cái “chết thật” của chính mình mà được sung sướng: “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!” Nỗi sung sướng, hạnh phúc bất thường, kỳ dị, thậm chí quái gở này, qua ngòi bút Vũ Trọng Phụng, như có sức lây lan rất rộng, rất sâu: từ người bề trên đến người bề dưới, từ người trong tang gia đến người ngoài tang gia, từ “khổ chủ” đến khách “đi đưa” đám, từ người sống đến “người chết”. 

Nó lại được duy trì bền bỉ đậm đặc từ hết trang nọ tới trang kia theo diễn biến của đám tang, từ lúc “phát phục” đến khi “cất đám”, “đưa đám”, và đến cả khi “hạ huyệt”. Xem thế đủ thấy niềm hạnh phúc mà cái chết kia mang lại thật là vô bờ bến và niềm sung sướng đúng là không còn bỏ sót ai. Vũ Trọng Phụng quả là người thích đùa và rất biết đùa. 

Trong đám ma, niềm vui là thật, nỗi buồn là giả, cũng có nghĩa rằng cái đám ma kia tất cả là giả. Cái khó của nhà văn là phải lật tẩy sao cho người ta thấy rõ cái giả ấy đã đành mà còn phải thấy cả tính chất lập lờ giữa cái giả với cái thật. Đã là cái giả, cái rởm thì phải mô phỏng cái thật, cố tình giống thật nhưng thường không bao giờ hoàn toàn giống thật. Thế là xuất hiện mâu thuẫn. Rốt cuộc thì rồi chân tướng thật, giả cũng đến lúc phải tự phơi bày. 

Một đám ma mà thiếu sự buồn đau và lòng thương tiếc chân thành, thì dù “to tát”, “danh giá” đến đâu, cũng chỉ là thứ trò diễn nhố nhăng, không thể gọi là đám ma đã đành mà cũng không thể gọi là đám rước đám hội. Mâu thuẫn thật-giả được nhà văn khai thác khá triệt để nhằm phóng to cái bất thường, kỳ dị làm bật ra tiếng cười phê phán.

Quả thật, trong cái xã hội “số đỏ” đầy rẫy những thứ rởm đời bấy giờ, không có cái gì là không làm giả, làm rởm được. Một khi đã có bằng sắc rởm; nghệ thuật, thi ca, khoa học rởm; văn minh “Âu hóa” rởm; tôn giáo rởm,… thì cũng có thể có chuyện buồn đau, tang chế rởm lắm chứ. Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh tường, sắc sảo của nhà văn, tất cả, cuối cùng, sự thật đã trở lại đúng với bản chất của nó.

Câu văn mở đầu đoạn trích hàm chứa một sự đối chiếu thật – giả rất thâm thúy: “Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.”. Nhìn từ phía tác giả, câu văn này ẩn giấu một nụ cười châm biếm (chết mà cũng có “chết thật”, chết giả?). Nhìn từ phía nhân vật (đám cháu con chí hiếu) nó ẩn giấu một tiếng reo mừng. Cụ tổ hẳn đã có những phen “chết giả” làm cho đám cháu con kia hụt hẫng thất vọng, và cả tang gia đã chờ đợi cái “chết thật” này quá lâu rồi. Cho nên, khi ông cụ “chết thật” thì người ta tất phải vui sướng hạnh phúc tột cùng. Và, tang gia “ai cũng” “hạnh phúc”, “vui vẻ cả”…, nhận xét này đã vang lên trong chương truyện như là một điệp khúc đầy mỉa mai.

Mỉa mai hơn, trong khi “đưa đám” người ta cũng thoáng thấy đây đó những gương mặt buồn, nhưng buồn hoàn toàn là vì những cớ khác. Ông Văn Minh có vẻ mặt “đăm chiêu” buồn là vì ông mải nghĩ đến việc “thực hành” cái “chúc thư kia”. Tuyết buồn “lãng mạn” là vì “không thấy bạn giai đâu cả”. Các quí ông “tai to mặt lớn” cảm động không phải vì nghe “tiếng kèn Xuân nữ ai oán não nùng”, mà vì trông thấy “làn da trắng thập thò” trên cánh tay và trên ngực tuyết,…

Lúc hạ huyệt, người ta cũng nghe thấy có tiếng khóc. Nhưng chỉ là tiếng khóc nhằm thu hút sự chú ý của mọi người, không phải xuất phát từ trái tim, cất lên từ đáy lòng. Cụ Hồng khóc là cốt để người ta phải chú ý đến và khen cái gậy trong tay cụ và trầm trồ khen rằng “con giai nhớn đã già đến thế kia”. Ong Phán mọc sừng khóc “Hứt…! Hứt…! Hứt…!”, “oặt cả người đi” là cốt để người ta phải tưởng rằng, ông là một chàng cháu rể “quý hóa”.

Trong khi kể về “hạnh phúc” của “tang gia”, một mặt, tôn trọng hiện thực, Vũ Trọng Phụng cố tình tạo ra sự mập mờ giữa cái thật và cái giả đúng như cái hiện thực xã hội vốn có: vàng thau lẫn lộn, đen trắng mập mờ. Nhưng mặt khác, ông cũng tỉnh táo vạch ra những đường biên cần thiết, giữa vàng thau, đen trắng và lật tẩy cái giả một cách thật tài tình.

Cả đám tang thực ra chỉ là một màn kịch, một trò diễn lớn, được dàn dựng theo đúng ý của người nọ người kia. Các cụm từ “đúng với ý muốn…”, “như ý…” trong đoạn văn sau được dùng rất ý vị nhằm lật tẩy tính chất trò diễn ấy của đám ma:

“Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh.”,…

“Ý muốn của cụ cố Hồng”, “ý ông Typn và bà Văn Minh” gợi nhớ đến ý của cậu Tú Tân qua hành vi: “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau nước mắt như thế này, như thế nọ,… để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.”. Vũ Trọng Phụng như nhà nhiếp ảnh đã “chụp ảnh”- nghĩa là bấm đúng lúc- và lật tẩy được tất cả. Nói chung, sự lật tẩy của tác giả càng bất ngờ thì càng thú vị, hài hước.

Đọc chương truyện, có cảm giác như không một hành vi giả tạo nào của đám con cháu “chí hiếu” – dù rất nhỏ – qua được mắt ông. Nhưng điều đặc biệt thú vị là sự lật tẩy của nhà văn thường tạo được bất ngờ. Nhờ thế, tiếng cười mỉa mai bật ra một cách tự nhiên, sâu sắc. Ông lật tẩy Văn Minh chồng:

“Ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng với cái mặt một người lúc gia đình đương là tang gia bối rối.” Ông lật tẩy cô Tuyết: “Hôm nay, Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng trong có coócsê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh. 

Thấy thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám.” Ông lật tẩy “các ông tai to mặt lớn”: “… Nhiều ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy cũng đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng.”

Ông lật tẩy cả đám đông: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân… Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.”

Ông lật tẩy cả bầy con cháu “chí hiếu”: “Một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ.” Và sắc sảo, bất ngờ nhất là việc ông lật tẩy cuộc “thanh toán hợp đồng” kín đáo, tinh vi giữa ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc Đỏ: “Xuân tóc đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ bên cạnh ông phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng mếu máo và ngất đi thì ông này cũng khóc to “Hứt!… Hứt!… Hứt!…”. Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hóa ấy.

Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm sao cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo thụng lòe xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi. – Hứt!… Hứt!… Hứt!… Xuân tóc đỏ muốn bỏ quách tay ra thì chợt thấy ông phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy rồi đi tìm cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.”

Cái nhìn trào phúng sắc sảo của Vũ Trọng Phụng thường tìm đến với các hình thức nghệ thuật tương xứng. Từ cách bố cục kếu cấu đến cách sử dụng ngôn từ của ông đều đậm chất muối trào phúng. Ở cấp độ kết cấu, hai thủ pháp chủ yếu thường được nhà văn sử dụng khá đắt: a) kết hợp tả viễn cảnh với tả cận cảnh; b) tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện.

Việc kết hợp tả viễn cảnh với cận cảnh mang tính nghệ thuật cao nhất là đoạn kể về việc “cất đám”, “đưa đám” và “hạ huyệt”. Ở đó, sự kết hợp tự nhiên giữa cận và viễn rất hài hòa, tự nhiên, nhưng viễn hay cận đều có chức năng nghệ thuật riêng. Các câu, đoạn tả viễn cảnh – chẳng hạn: “Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy….”, “Đám cứ đi…”, “Đám cứ đi…”- thường làm cho người ta có cái cảm giác là đám ma rất to tát, linh đình, “gương mẫu”. (Mà người đời thì vẫn hay đo lòng hiếu nghĩa của tang gia bằng mức độ to tát, linh đình ấy). 

Trong khi đó, các câu, đoạn tả cận cảnh và đôi khi đặc tả, thì lại làm cho người ta có thể soi vào từng góc khuất, hay hành vi, chi tiết nhỏ nhất để thấy hết cái giả dối, rởm đời, nhố nhăng, kỳ quặc và “vô nghĩa lý” của cái đám tang này. Rõ ràng là chỉ khi soi mắt nhìn vào từng góc khuất, từng hành vi nhỏ nhặt thì mới thấy được sự thật này: “Ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may.”, hoặc: “Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư…”.

Vậy là, nhìn từ cự ly xa nhà văn thâu tóm được trung thành cái bề ngoài có vẻ giống thật, thậm chí rất “gương mẫu”, “to tát” của đám ma. Còn nhìn từ cự ly gần, thật gần nhà văn đã lật tẩy cái giả, cái thực chất chứa đựng và được che đậy ở bên trong của nó: sự bất hiếu, bất nghĩa và thói đạo đức giả. Tiếng cười đã bật ra, rất tự nhiên, từ mâu thuẫn thật- giả này.

Bên cạnh việc kết hợp giữa miêu tả viễn và cận cạnh, nhà văn còn sử dụng hợp lý kỹ thuật tạo tình huống kịch tính và duy trì được độ căng cần thiết cho câu chuyện. Chẳng hạn, sau khi ông già “chết thật”, đã “được quan trên khám đã qua loa”, niềm vui của đám cháu con tưởng đã có thể nở rộ, thì vì một lý do nào đó, sự sung sướng có nguy cơ bị hoãn lại. Lập tức có bao nhiêu phản ứng chỉ trích lẫn nhau giữa “phái trẻ” với “phái già”:

“Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc đồ xô gai tân thơi, cái mũ mấn trắng viền đen – dernières créations.

Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hóa một khi đã lăng-xê ra thì có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hoãn, cụ cố Hồng cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi.

Vậy đấy, người trong tang gia đã phải “la ó lên…”, “điên người lên…”, sốt cả ruột”, “rất bực mình”, “đổ lỗi cho…”, “kêu khổ lắm”,… Câu chuyện trở nên căng thẳng và giàu kịch tính hẳn lên. Lệnh phát phục chỉ mới trì hoãn có một ngày mà người ta đã bực dọc, sốt ruột, đau khổ như vậy, giả sử ông già tám mươi này cứ “sống mãi” thì họ còn bực dọc, sốt ruột, đau khổ đến mức nào. Thế mới biết, có được niềm “hạnh phúc” như của “tang gia” này cũng không dễ dàng gì. Ở cấp độ ngôn từ, chất muối trào phúng được cô đặc trong một số hình thức câu văn nói mỉa.

Đọc Thêm:  Top 3 Tiệm trà chanh ngon nhất Thái Bình

Có khi nhà văn mỉa mai bằng lời văn có chứa các cụm từ phản nghĩa, ngược nghĩa. Ví dụ cụm từ “hạnh phúc của một tang gia” trong nhan đề đoạn trích, hoặc cụm từ “công hiệu đến nỗi họ mất mạng” trong đoạn văn nói về “thuốc thánh” đền Bia (“Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người ho lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng.”).

Có khi ông mỉa mai bằng câu văn viết theo lối nói ngược. Chẳng hạn, sau khi ghi lại hàng loạt câu nói “thì thào” trơ trẽn, nhảm nhí của đám “trai thanh gái lịch” đến dự đám tang, tác giả viết: “Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi đưa đám ma.”

Đến đây, có thể kết luận rằng: Từ cái “chết thật” của “ông cụ già” đến đám ma giả của tang gia, và từ cái đám ma giả tang gia đến niềm vui thật của bọn người hám danh, hám lợi, đạo đức giả được kể trong chương truyện này là cả một hành trình sáng tạo của một tài năng lớn – tài năng trào phúng Vũ Trọng Phụng.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 1

Mỗi khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta đều nhớ tới ông là “ông vua phóng sự của đất Bắc Kì”. Đúng vậy, ông có một công trình đồ sộ về phóng sự và tiểu thuyết, với các tác phẩm bất hủ như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố (1936)…

Nhưng có lẽ bạn đọc nhớ nhất đến tiểu thuyết “Số Đỏ” của ông. Với những sự thật xã hội bấy giờ được tác giả thêu dệt lại qua lăng kính của mình. Đặc biệt đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đã nêu lên được những nét chủ đạo của câu chuyện và thấy được bút pháp trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.

Trong đoạn trích này chủ yếu nói về cái chết và đám tang Cụ tổ được tái hiện lên như một màn hài kịch. Có rất nhiều tình tiết và các bộ mặt khác nhau trong đám ma điều này dẫn đến một đám ma đau thương trở thành một đám ma đáng cười xót xa. Chính cái chết của cụ tổ cho thấy đây là một cái chết vừa đáng cười vừa đáng khóc. Vì sao lại vậy? Khóc vì đạo đức của một bộ phận con người suy đồi đến cực độ, cha chết, ông chết mà “bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích”. 

“Cái chết của ông già hơn 80 tuổi” đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Ai cũng nghĩ đến cái lợi cho mình, như vậy, đúng với cái nhan đề của đoạn trích tưởng như lố bịch của cuộc sống đời thường, nhưng không “Hạnh phúc của một tang gia” lại đúng khi cụ tổ mất. Những tiếng khóc, sự “báo hiếu” của con cháu thực chất là sự khoe giàu sang với thiên hạ. Bằng ngòi bút trào phúc, châm biếm, đả kích của tác giả, làm cho đoạn trích các nhân vật được hiện lên rất đáng cười, những tiếng cười ra nước mắt.

Để thấy được hạnh phúc của gia đình khi cụ tổ mất tác giả đã đi vào từng nhân vật để thấy được họ đang xót thương đau buồn hay biến đám ma của cụ cố tổ vào mục đích của bản thân? Cụ cố Hồng – con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết của cha mình và cho đây là một cơ hội để tỏ ra già yếu khi lo cho cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được những sự lố lăng mà ngu dốt ham danh trong xã hội phong kiến.

Bên cạnh cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN lại tỏ ra vui mừng khôn xiết trước cái chết của ông nội và đây cũng là một cơ hội để ông đưa nền văn minh Á-Âu vào quảng cáo ở đám tang. Thật đau lòng thay, một đám ma hay là mọt phiên chợ để con cái mang ra quảng cáo, kinh doanh. Hay chính bà Văn Minh thì lại vui mừng vì đây là dịp để chưng diện đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Đúng là sự vô ơn bạc nghĩa của những kẻ vô học thức.

Trong đoạn trích tác giả còn nói về cô Tuyết, đến đám ma nhưng lại mặc bộ y phục gây thơ “Cái áo voan mỏng trong cooc-sê, hở cả nách cả vú” tưởng như tác giả tả hơi quá, nhưng không chỉ ở cách ăn mặc mà cô Tuyết này còn thể hiện ở cả tính cách, sự lẳng lơ, tưởng như vẻ mặt buồn vì đám tang, nhưng đây là nỗi buồn nhớ người tình.

Hết đến cô Tuyết lại đến cậu Tú Tấn, vui mừng vì cái máy ảnh đã được đem ra sử dụng vì Cậu mua đã lâu mà không dùng, thật ngỗ nghịch khi đám ma mà lại dẫm lên các ngôi mộ để chụp ảnh, tạo kiểu như một nhà nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.

Hay chính ông Phán Mọc Sừng vui mừng vì cái sừng trên đầu mình được hưởng thêm tiền sau khi đám ma xong. Trong khi đó Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng lại càng nhiều hơn và càng được nhiều người tôn trọng vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.

Không chỉ có những người nhà của cụ cố tổ sung sướng ra mặt mà còn những người ở ngoài cũng góp một phần vào niềm hạnh phúc của gia đình khi đang có tang. Là đám ma nhưng lại có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng như thế khác nào một đám rước? Hay có cả kèn ta, kèn tây sự lố lăng của sự “âu hóa”. Hay tại chính đám ma này cũng là cơ hội cho những “nam thanh nữ tú” “chim cò” nhau. Thật đáng lên án thay.

Qua việc thêu dệt lại các nhân vật bằng lăng kích của tác giả đã thể hiện rõ được sự lố bịch, tây-ta lẫn lộn của những học giả đòi làm sang. Bằng ngòi bút châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại lúc thì biếm họa. Lúc tưởng như đáng đau buồn đau thương nhất nhưng lại là những niềm hạnh phúc được vỡ òa của những con cháu bất nhân, bất hiếu. Hay đáng lẽ là sự đau thương, đau buồn, thì lại là sự phô của, sự tình tứ nhau…

Từ trang chủ, bọn con cháu, hay chính những người quan khách đến viếng đều là những vai hề. Không phải tự nhiên mà Vũ Trọng Phụng lại viết “Người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu.” Đây là một chi tiết nhỏ nhưng cũng để cho người đọc thấy được giọng điệu mỉa mai của tác giả.

Như vậy, qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” cho người đọc thấy hiện thực xã hội lúc đương thời, sự đáng cười nhưng cũng chính là sự đáng thương của một bộ phận con người trong xã hội lúc bấy giờ. Những tiếng cười ra nước mắt vì đạo đức con người bị suy thoái, sự âu hóa tây ta lẫn lộn làm nên sự lố bịch.

Từ đó, đáng lên án, phê phán gay gắt bộ phận này trong xã hội. Đồng thời, cũng qua đây cho ta thấy được sự tinh tế, đặc sắc trong việc lột tả hiện thực xã hội của Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 7

“Số đỏ” là tiểu thuyết đặc sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, cũng là tác phẩm có giá trị bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong tác phẩm này, thông qua việc xây dựng tình huống “cười ra nước mắt” tác giả đã vạch trần bản chất thối nát, lố lăng của tầng lớp địa chủ, đại tư sản, qua đó là tiếng khóc đầy xót xa cho sự suy đồi của những giá trị đạo đức tốt đẹp. 

Chương XV của tác phẩm – Hạnh phúc của một tang gia là đoạn trích tiêu biểu cho cảm hứng trào phúng, phê phán này. Nhận xét về đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia cũng như tiểu thuyết “Số đỏ”, có ý kiến cho rằng “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng như một tấn trò đời của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát”.

“Tấn trò đời” là tác phẩm tập hợp 97 tiểu thuyết đặc sắc của “bậc thầy chủ nghĩa hiện thực” Balzac. Qua Tấn trò đời là bức tranh hiện thực rộng lớn của xã hội Pháp trong những năm nửa đầu thế kỉ XIX. “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là bức tranh xã hội thực dân nửa phong kiến với sự suy đồi của giai cấp địa chủ đại tư sản. Chính sự tương đồng trong nội dung phản ánh đã gợi liên tưởng “Số đỏ” của Việt Nam chính là “Tấn trò đời” của nền văn học cổ điển Pháp.

“Hạnh phúc của một tang gia” thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ, đoạn trích nói về đám tang của cụ cố Tổ. Thông qua những tình huống hài hước, tác giả Vũ Trọng Phụng đã vạch trần cái lố lăng của các nhân vật trong câu chuyện. Bút pháp trào phúng quen thuộc đã thể hiện ấn tượng về niềm vui sướng, hạnh phúc của những thành viên trong gia đình cố Hồng trước sự ra đi của cụ cố Tổ.

Ngay tên của đoạn trích đã thể hiện được cái bi hài kịch trong gia đình đại tư sản danh giá “hạnh phúc của một tang gia”. “Hạnh phúc” là trạng thái thăng hoa, vui sướng khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó của cuộc sống, còn “tang gia” lại chỉ gia đình có tang, gắn với sự mất mát về tình cảm. Theo lẽ thường, một gia đình có tang thì không khí bao trùm sẽ là nỗi đau thương, sự mất mát về người và tình cảm. Nhưng đám tang của cụ cố Tổ lại thật lạ lùng, bởi đám tang tuy có sự mất mát về người nhưng lại có thể mang đến hạnh phúc, sự thỏa mãn cho tất cả các thành viên trong gia đình và ngoài gia đình.

Cố Hồng – con trai của cụ cố Tổ cảm thấy vui sướng vì được mặc áo xô gai, chống gậy “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, chống gậy…”. Trong suốt đám tang, cố Hồng luôn tỏ ra già yếu, lẩn thẩn cùng câu nói cửa miệng quen thuộc “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Niềm vui sướng của nhân vật này khi cha của mình mất chính là muốn nghe lời trầm trồ, tán thưởng của mọi người trong khu phố, muốn phô ra cái phúc của một gia đình đại tư sản, rằng con trai già bố mới mất.

Vợ chồng Văn Minh là con cả của Cố Hồng, theo lẽ thường cần đứng ra lo chu toàn ma chay cho ông nhưng vấn đề mà vợ chồng Văn Minh quan tâm lại là việc thừa kế “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành” và việc nên hay không nên cưới chạy tang cho cô Tuyết.

Phán Mọc Sừng cảm thấy lâng lâng hạnh phúc vì được thêm một số tiền kha khá, cậu Tú Tân cảm thấy hạnh phúc vì được chụp ảnh “sướng điên người vì có dịp thi thố tài năng chụp ảnh”. Cô Tuyết diện lên mình bộ trang phục ngây thơ không phù hợp bối cảnh. Mọi cái lố lăng, rởm đời được phô bày một cách rõ nét mang đến tấn bi hài cười ra nước mắt.

Qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”, tác giả Vũ Trọng Phụng đã lên án gay gắt xã hội thực dân nửa phong kiến với phong trào Âu Hóa đầy lố lăng, nơi những giá trị đạo đức bị coi nhẹ, chà đạp để trở thành thứ bi hài trong cuộc sống. Ngòi bút trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã mỉa mai, chễ giễu đầy sâu cay với đám ma khác đời, có một không hai này “thật là một đám ma có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”.

Số đỏ là lời lên án sâu sắc cái đen tối của xã hội thực dân nửa phong kiến, cũng là tiếng khóc xót thương cho sự ra đi của những giá trị đạo đức. “Hạnh phúc của một tang gia” là tấn bi hài cười ra nước mắt mà Vũ Trọng Phụng đã tái dựng đầy thành công.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 9

Đất nước hôm nay tươi đẹp, phát triển thay đổi từng giờ, song ta vẫn không thể quên một thời kì đen tối nhất trong lịch sử nước nhà. Thời kì dân tộc ta chìm trong bóng tối chế độ thực dân nửa phong kiến, vô số kẻ khoác lên những “tấm áo” giả dối, lố lăng, đồi bại cùng nhau tạo nên một bức tranh ghép của xã hội thối nát. 

Với ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị chạy theo lối sống nhố nhăng, bịp bợm đương thời qua “Số đỏ”. Có ý kiến cho rằng “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng là một “tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến. Quả vậy, xã hội được phản ánh và quy mô và thi pháp trong “Số đỏ” tuy chưa thể ngang tầm với “Tấn trò đời” (Balzac) nhưng mức độ phản ánh hiện thực và ảnh hưỏng sâu rộng của tác phẩm với cộng đồng cũng không hề thua kém.

Honoré de Balzac – được xưng tụng như một “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực” (Engles) đã để lại một công trình ván học đồ sộ: bộ “Tấn trò đời” với 97 tiểu thuyết được sáng tác từ 1829 đến 1850. Tuy chưa được hoàn thành, “Tấn trò đời” vẫn là một bức tranh hiện thực rộng lớn, mô tả những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội tư sản Pháp nửa đầu thế kỉ 19. Balzac gọi những cuốn tiểu thuyết của ông là những “bi hài kịch”. Và đây cũng chính là điểm chung khiến ta liên hệ “Số đỏ” của văn xuôi Việt Nam với “Tấn trò đời” của nền văn học cổ điển Pháp.

“Số đỏ” (1936) là tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ Trọng Phụng và vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Dùng tiếng cười làm vũ khí, “Số đỏ” đã vạch trần thực chất thối nát của các phong trào “Âu hóa”, “thể thao”… được bọn thống trị khuyến khích, phát triển rầm rộ cuối những năm 30. Với một loạt những chân dung biếm họa phong phú, “Số đỏ” giúp ta hình dung cái xã hội thành thị nhố nhăng, đồi bại thời trước.

“Hạnh phúc của một tang gia”- một chương tiêu biểu trong “Số đỏ” thông qua cái chết và đám tang của cụ cố tổ, tác giả đã dựng lên một màn hài kịch, nêu bật nhiều mâu thuẫn hài hước đủ các cung bậc. Xuyên suốt chương truyện là một bút pháp trào phúng độc đáo trong việc thể hiện niềm vui sướng hả hê của những thành viên trong đại gia đình cụ cố Hồng trước cái chết cụ cố tổ và những kẻ đưa đám ma như trẩy hội.

Trong “Lão Hạc”, Nam Cao viết: “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương”. Nếu Nam Cao đến với số phận con người bằng một tấm lòng nhân đạo, nâng đỡ con người khiến chính người đọc cũng ngậm ngùi bên từng trang viết, thì Vũ Trọng Phụng lột trần cái “hạnh phúc” đáng khinh bỉ, lũ con cháu bất hiếu, lố lăng đã khô héo cả những tình cảm máu mủ thiêng liêng nhất.

“Hạnh phúc của một tang gia”, nhan đề này thực sự mới lạ, giật gân khiến người đọc phải chú ý. Tuy nhiên, đây không phải là một sự giật gân dễ dãi, vô lý mà đã phản ánh đúng cái sự thật mỉa mai: con cháu của đại gia đình này thật sự sung sướng, thậm chí “hạnh phúc” khi cụ tổ chết một cái chết được mong đợi từ lâu. Chứng phấn khởi, những niềm phấn khởi muôn màu, muôn vẻ. 

Ta không khỏi cười thầm khỉ “cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm…”, nhưng đó nào có là niềm vui sướng thầm kín, ” tưng bừng, vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma…”. Đấy chỉ mới là niềm vui chung mà thôi. Vũ Trọng Phụng đã cố tìm mà hiểu cái đại gia đình này qua từng con người. Ta thương hại cho thói hiếu danh, thích được chú ý của cụ cố Hồng, “mơ màng cho đến cái lúc cụ mặc đồ xổ gai, lụ khụ chống gậy…”, thương thay cho một “ước mơ” nhỏ nhoi là tự biến mình thành trò xiếc để “thiên hạ chỉ trỏ khen…”.

Rồi ông phán mọc sừng cảm thấy hạnh phúc vì được thêm một số tiền, ông Văn Minh “thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành”, cậu Tú Tân ” sướng điên người vì có dịp thi thố tài năng chụp ảnh”. Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nên một màn kịch từ những “mơ ước” thầm kín đến niềm vui sướng dâng trào, toàn cảnh “tang gia” tuyệt nhiên không gợn một chút thương tiếc nào. Phũ phàng hơn “bầy con cháu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ, ông Văn Minh “thầm biết ơn Xuân Tóc Đỏ vì tình cờ gây ra cái chết kia của cụ già”.

Balzac từng miêu tả cái chết trong nghèo nàn về cả vật chất lẫn tinh thần của lão Gôriô một cách mỉa mai. Song, dù sao chăng nữa “những nghĩa vụ cuối ấy cũng được thực hiện tận tình bởi hai người thanh niên xa lạ. Có thể nói, ma của cụ cố tổ trong “Số đỏ” hoàn toàn tương phản với những gam màu buồn trong “Nghĩa vụ cuối cùng”(Lão Gôriô). Nghệ thuật châm biếm sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã sử dụng những chi tiết chọn lọc nhằm khắc họa thật sắc nét bình ánh cái đám tang lộ rõ lối đua đòi, “văn minh rởm”. 

Ta không thể nhận ra liệu đây là đám ma hay đám rước bởi cái hổ lốn, tạp nhạp “Ta, Tàu, Tây…”, “lợn quay”, “vòng hoa”, “câu đối”. Bọn con cháu thì không còn lời gì để tả, Tuyết “mặc bộ… Ngây thơ… hở cả nách, nửa vú…” với khuôn mặt mang “một nét buồn lãng mạn rất đúng mốt”. 

Cậu Tú Tân thì hào hứng “chỉ huy chụp ảnh… như ở hội chợ” những gì gọi là to tát, long trọng, danh giá của cái đám ma ấy chi là sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lý háo danh đến kì quặc qua những hình thức nghi lễ đưa tang hổ lốn hết sức buồn cười. Tác giả đã hạ một câu văn mỉa mai cực độ “thật là một đám ma có thể làm cho người chết trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu”.

Không chỉ sử dụng các yếu tố mâu thuẫn từ những cái bình thường, thậm chí tầm thường để trào phúng: Vũ Trọng Phụng còn xây dựng nên vô số những nhân vật phụ làm nền cho bức tranh biếm họa ít nhiều có nguồn gốc từ chính hiện thực, những nguyên hình trong xã hội dâm loạn, giả dối đương thời. Từ những ông bạn thân của cụ cố Hồng… đeo đầy những huân chương… đến “giai thanh gái lịch” đất Hà thành đang Âu hóa “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau…” đã biểu lộ mọi góc cảnh của cái tính vô văn hóa, vô đạo đức của bọn cặn bã mang những chiếc mặt nạ bịp bợm.

Đọc Thêm:  Top 6 Tiệm trang điểm cô dâu đẹp nhất quận Tân Phú, TP. HCM

Những hành động của ông Phán mọc sừng đối với Xuân Tóc Đỏ ở cuối đoạn trích là những chi tiết trào phúng đặc biệt chua chát góp phần không nhỏ tô đậm sự lố lăng, vô đạo đức của xã hội thượng lưu thời đó. “Ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi” nhưng vẫn không quên bí mật “dúi vào tay Xuân một tờ giấy bạc gấp tư”. 

Những nhà trí thức chân chính của Việt Nam, không ít người đã từng du học Pháp, nhưng họ đã đau vì nỗi đau nô lệ, họ từng đau vì lòng tự ái dân tộc bị tổn thương dưới gót giày xâm lược của quân viễn chinh Pháp và họ bỏ hết những tiện nghi và lợi ích cá nhân để vào chiến khu “theo chân Bác”. Ta hãy nghe một đoạn nhật kí của Giáo sư Hồ Đắc Di (người thầy của Bác sĩ nổi tiếng — Tôn Thất Tùng) “

Ai đã từng sống kiếp đọa đày trong đêm trường nô lệ; hay chí ít đã trải qua những nhọc nhằn, day dứt lương tâm, nhân phẩm, ắt sẽ lao theo cơn lốc cách mạng, một khi ánh sáng của nó soi rọi tâm hồn”. Trí thức chân chính Việt Nam cùng nhân daan lao động làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám, quét sạch những trò ma mãnh, lọc lừa của thứ văn minh giả dối, bịp bợm và tình trạng số đỏ của xã hội Việt Nam không còn chỗ đứng trong “cơn lốc cách mạng”.

Từ cách đặt nhan đề chương truyện, đặt tên nhân vật, đồ vật, cách so sánh, cách dùng hình ảnh, đến cách đặt câu, cách tạo giọng điệu., đều thể hiện đậm nét chất trào phúng, châm biếm, mang lại hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Sau cái hài buồn cười ấy là cả một bi kịch đáng “buồn”, đó chính là bi kịch của cả xã hội khi mà đạo đức con người xuống cấp, nhân cách băng hoại: sau tiếng cười ta thấm thía xót xa cho xã hội Việt Nam thời ấy. 

“Số đỏ” thực xứng đáng là một “Tấn trò đời” của xã hội Việt Nam thời kì thực dân nửa phong kiến thối nát. Đọc Số đỏ nói chung, và chỉ cần một chương XV “Hạnh phúc của một tang gia”, ta cũng đã bật cười và rồi xót xa muốn khóc cho những giá trị truyền thống cao đẹp nhất của dân tộc ta đã bị chà đạp đến tan nát làm não lòng tâm hồn Việt. Vũ Trọng Phụng đã đưa chúng ta vào chứng kiến một thế giới “phi nhân loại” mà thế lực đồng tiền và thực dân đã trình làng bằng khẩu hiệu ngụy trang “văn minh- khai hóa”.

Trước đó không lâu, Trần Tế Xương cũng từng khóc – cười cho xã hội truyền thống Việt Nam điên đảo qua bài thơ “Mồng hai tết viếng cô Kí”. Sau đó, Vũ Trọng Phụng ghi lại như một trang phóng sự, chính xác và sinh động đến không ngờ bằng ngòi bút như chảy máu từ một trái tim thắm nồng tình yêu dân tộc.

Thông điệp từ trang “Số đỏ” ngày trước nhắc nhở mỗi chúng ta hôm nay một ý thức trách nhiệm với đất nước. Để tình trạng “Số đỏ” sẽ mãi chỉ là “phút lỡ nhịp ngang cung” trong toàn bộ trang sử hào hùng của một dân tộc tự cường và giàu lòng tự trọng.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 4

Một trong số những tác phẩm văn học tiêu biểu cho xu hướng hiện thực đã phê phán kịch liệt cái xã hội tư sản thành thị trước Cách mạng tháng Tám 1945 là tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Với lốì văn châm biếm sắc sảo các chương trong “Số đỏ” đều là những màn hài kịch đầy thú vị, đặc biệt là chương XV “hạnh phúc của một tang gia”.

Trước hết ta hãy quan sát xem những người trong tang quyến của cái gia đình danh giá và đám tang có một không hai ấy xem họ đang nghĩ gì, làm gì trước sự kiện mà bấy lâu họ mong chờ. Điều đầu tiên mà ta cảm nhận được là ” Tang gia có hạnh phúc”. Mâu thuẫn và nực cười phải không? Bởi lẽ, thông thường tang gia nào cũng buồn rầu, đau đớn trước cái chết của người thân. 

Trái lại mỗi người trong gia đình cụ cố Hồng đều vui mừng, cảm thấy có hạnh phúc khi cụ cố tổ vừa mất. Thử xem từng người vui ra sao nhé. Ông phán mọc sừng thấy hạnh phúc vì được thêm số tiền là vài nghìn đồng bù khoản bị vợ cắm sừng . Người con trai cả – Cụ cố Hồng nhắm mắt mơ màng đến cái lúc cụ mặc áo gai, lụ khụ chống gậy… để thiên hạ đều chi trỏ khen một cái đám ma như thê, một cái gậy như thế… 

Ông Văn Minh thì lại thích thú vì cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viễn vông nữa. Còn cậu Tú Tân sướng điên người vì có dịp thi thố tài chụp ảnh. Bà Văn Minh nôn nao chờ lăng xê kiểu đồ tang tân thời của hiệu may Âu hóa, cuối cùng được như ý. Cô Tuyết dịp khoe với thiên hạ cái cơ thể còn gợi cảm qua lần áo tang mỏng để nói rằng “chưa đến nỗi đánh mất chữ trinh”. Hạnh phúc cứ thế mà tuôn ra, trào ra khó dấu diếm.

Sự hấp dẫn của đoạn trích còn ở những mâu thuẫn trào phúng cơ bản. Trước hết nó nằm ngay trong nhan đề của chương: “Hạnh phúc của một tang gia”. Mọi thành viên trong gia đình đều thấy đây là một dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện được ý đồ riêng tư của mình. Cho nên cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm… Bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân…

Tuyệt nhiên không ai tỏ ra đau buồn thương tiếc người quá cố. Thiếu vắng loại tình cảm ấy, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Thật vậy, còn phũ phàng hơn là bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ. Chính ông Văn Minh, cháu nội của người quá cố, còn thầm biết ơn Xuân Tóc Đỏ, tình cờ đã gây ra cái chết của cụ già đáng ghét. Tiếp theo là cảnh đám tang. Đập vào mắt người ta trước tiên là sự đua đòi lối sống văn minh rởm. 

Với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua một số chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi lối sống văn minh rởm ấy. Đó là một đám ma to tát, long trọng, theo cả lối Ta, Tầu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng, và bu đích và vòng hoa, có đến ba trăm câu đốì, vài ba trăm người đi đưa. Lại có cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. 

Đám ma ấy làm huyên náo cả thành phố bằng kèn Ta, kèn Tây, kèn Tầu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Bằng màn trình diễn, quảng cáo đồ xô gai tân thời, cái mũ mân trắng viền đen mà nhân đó, Tuyết bèn mặc đồ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Đám ma ấy còn làm huyên náo bằng việc có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. 

Tuy nhiên nếu nhìn kĩ sự việc ta sẽ nhận ra ngay thực chất kì quặc, lố lăng của đám tang lạ đời đó. Những gì gọi là to tát, long trọng, danh giá của cái đám ma này chỉ là sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh hết sức kì quặc, qua những hình thức nghi lễ đưa tang hổ lốn đến buồn cười. Và không thể cầm lòng được, tác giả đã phải hạ một câu văn diễn đạt đầy đủ, trọn vẹn sự mỉa mai đến cực độ: “Thật là một đám ma to tát có thể làm người chết nằm trong quan tài cũng phải mím cười sung sướng, nếu không gật gù cúi đầu!…”

Còn một thành phần vô cùng quan trọng nữa trong đám tang, góp phần làm nên sự to tát của nó, đó là những người đưa tang. Bọn họ là ai? Hãy thử nhé. Trước tiên là những ông bạn thân của cụ cố Hồng hình như đưa đám tang để khoe huân chương, huy chương, khoe những kiểu râu hoặc dài hoặc ngắn hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn. 

Các vị tai to mặt lớn của xã hội thượng lưu đó đều cảm động (…) khi trông thấy làn da thập thò trong làn áo voan trên cánh lay và ngực Tuyết… dù họ đang sát ngay với linh cữu. Rồi đến hàng trăm giai thanh gái lịch của Hà Thành văn vật đang Âu hóa với một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan, vân vân… đều mang vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma. 

Cả đám đông đưa tang đó vừa đi vừa chim chuột, soi mói, bình luận về cơ thể phụ nữ, nói với nhau những chuyện nhảm nhí trong đời sống đồi bại thường ngày của họ, đã biểu lộ mọi góc cạnh của cái vô văn hóa vô đạo đức của bọn người cặn bã của xã hội tư sản thành thị thời ấy. Tác giả tiếp tục sử dụng các yếu tố phóng đại về dạng cách lố bịch, tạo mâu thuẫn và gây cười một cách kín đáo và để ta thấy rõ họ giống như thật, họ ở đâu đó ngoài đời. Đồng thời phơi bầy một sự thật họ là bọn người mang cái danh hão thượng lưu, văn minh là bọn cặn bã của xã hội tư sản thành thị.

Còn tác giả – kẻ làm phúc cho tang gia khi đã tạo ra cái chết mà con cháu đang trông chờ từng giây phút Xuân Tóc Đỏ? Xuất hiện giữa đám tang đang di chuyển, đã làm cho cảnh đưa đám thêm lố lăng. Hắn bộc lộ tính tinh quái, láu lỉnh bên cạnh tính đểu cáng và dâm đãng vốn có. 

Hắn biết tự quảng cáo đúng chỗ, xuất hiện đúng lúc, đáp ứng đúng ý thích của những người mà hắn cần lấy lòng như Tuyết, như cụ bà. Đến cảnh ông Phán dúi tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư, Xuân Tóc Đỏ vội nắm tay cho khỏi có người nom thấy trở thành đỉnh điểm của màn hài kịch đưa tang này. Sự giả dối, bịp bợm ở đây thật vô sỉ đến ghê tởm.

Bằng ngòi bút trào phúng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã vạch mặt bọn trưởng giả chạy theo đồng tiền, đua đòi lối sống văn minh rởm, bịp bợm, dâm đãng, đồi bại thời đó qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một nhà văn hiện thực hàng đầu trong nền văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Bài văn phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” số 10

Vũ Trọng Phụng – cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng như tiểu thuyết, phóng sự, … ở mảng nào ông cũng thể hiện tài năng quan sát bậc thầy của mình về hiện thực xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng. Trong hệ thống tác phẩm đó, nổi bật nhất phải kể đến Số đỏ – thiên tiểu thuyết có thể làm vinh dự cho bất cứ nền văn học nào. Nghệ thuật trào phúng trong tác phẩm đã đạt đến đỉnh cao, đặc biệt là trong trích đoạn “Hạnh phúc một tang gia”.

“Hạnh phúc một tang gia” được trích từ chương XV khi Xuân Tóc Đỏ làm cụ cố tổ chết. Một đáng tang long trọng, đầy bối rối, “hạnh phúc” của đám con cháu trước cái chết của người thân trong gia đình. Với khung cảnh đám ma, Vũ Trọng Phụng đã lột trần bản chất xấu xa, “chó đểu” của lũ con cháu cũng như xã hội đương thời.

Ngay từ nhan đề của văn bản đã cho thấy sự mâu thuẫn, trào phúng. Hạnh phúc vốn là trạng thái tâm lí khi con người được thỏa mãn một mong muốn, một nhu cầu nào đó của bản thân. Còn tang gia là khi gia đình đó có người mất, không khí bao trùm sẽ là sự um ám, buồn thương, tang tóc. Khi kết hợp hai yếu tố này lại khiến cho người đọc bất ngờ, ngỡ ngàng về một hạnh phúc quái dị của gia đình cụ cố Hồng.

Cái chết của cụ cố tổ không những không làm họ đau buồn, mà con đem đến niềm vui vô hạnh, niềm hạnh phúc to lớn cho đám con cháu. Bởi khi cụ cố tổ chết, tất cả đám con cháu sẽ được chia gia tài: “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm”, “thành ra tang gia ai cũng vui vẻ cả” “người ta tưng bừng đi đưa giấy cáo phó, thuê kèn đám ma”. Một không khí tưng bừng, rộn rã, tươi vui bao trùm lên đám tang, mà người ta cứ ngỡ như nhà có việc hỉ.

Đấy là niềm vui chung, còn mỗi thành viên trong gia đình lại có niềm vui khác riêng cho mình. Cụ cố Hồng có được cơ hội ngàn năm để diễn trò già nua trước đám đông, để cho thiên hạ chỉ trỏ khen mình là già, để thể hiện gia đình mình có phúc lớn. Đồng thời đây cũng là cơ hội để tỏ lòng hiếu thảo với cha mình, thông qua việc tổ chức đám ma thật to, thật hoành tráng. Còn cụ bà vui mừng vì tổ chức được cho cha một đám ma danh giá nhờ có sự xuất hiện của sư cụ Tăng Phú. 

Niềm vui của bà Văn Minh thật đơn giản đó là được mặc bộ đồ xô gai tân thời, để giúp bà lăng xê những mẫu thời trang tang lễ của tiệm may Âu hóa. Bà Văn Minh đã gián tiếp thực hiện mục đích biến đám tang thành sàn biểu diễn thời trang. Còn ông Phán mọc sừng không ngờ đôi sừng trên đầu mình lại có giá trị to lớn đến thế, ngoài tiền được chia gia tài còn được chia thêm tiền đền bù danh dự, vậy là kế hoạch đào mỏ của ông đã thành công. 

Nhưng còn những trẻ tuổi như Tuyết hay cậu Tú Tân lại có niềm vui rất đơn giản: Tuyết có dịp được mặc bộ trang phục tang lễ ngây thơ để chứng minh với thiên hạ mình là người không hư hỏng; còn cậu Tú Tân vui mừng vì có dịp được dùng cái máy ảnh mới mua, được thỏa mãn sở thích chụp ảnh, thể hiện tài nghệ chụp ảnh.

Không chỉ người trong nhà vui, mà những người ngoài cũng tìm được niềm hạnh phúc trong đám tang cụ cố tổ. Đối với ông TYPN đám tang là dịp để những mẫu thiết kế của ông ra mắt công chúng và ông trông chờ sự phản hồi của dư luận ra sao. Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa sung sướng cực điểm vì đang lúc không có việc để làm thì được thuê trông giữ đám ma. Với Xuân Tóc Đỏ đám tang này giúp y củng cố địa vị của mình ở xã hội thượng lưu và được ông Phán mọc sừng thanh toán nốt năm đồng còn lại. 

Còn hàng phố, những người xung quanh thì vui sướng khi được xem đám tang to tát, linh đình; được xem những màn trình diễn thời trang miễn phí. Tất cả mọi người đều có niềm hạnh phúc riêng. Vũ Trọng Phụng đã dùng ngòi bút châm biếm, đả kích sâu cay của mình để vạch trần bộ mặt thật của xã hội thượng lưu đương thời: vô đạo, không có lương tâm.

Cảnh đám tang lại là sự pha tạp Tây, Tàu lẫn lộn: tiếng kèn xuân nữ não nùng, tiếng lốc bốc xoảng và bú dích, tiếng Ta, kèn Tây lần lượt thi nhau rộ lên. Đám tang to tát, đi đến đâu làm huyên nào đến đó nhưng không có chút tình người. Người đưa tiễn thì tranh thủ khoe khuân chương, đám trai gái thì trêu ghẹo, đùa cợt với nhau. Điệp khúc “đám cứ đi” điệp đi điệp lại cho thấy đám đông vô tình, vô nghĩa. Tác giả đã một lần nữa vạch trần bộ mặt xã hội thượng lưu thành thị.

Cảnh hạ huyệt càng trở nên nực cười hơn nữa. Những người thân thì tạo dáng chụp ảnh, cậu Tú Tân ép mọi người tạo đủ tư thế sao cho thật đau khổ để cậu chụp được những bức ảnh để đời. Ông Phán mọc sừng và Xuân Tóc đỏ lại là những diễn viên đại tài, trong khi đóng kịch khóc thương cụ cố tỏ đã kịp tiến hành một cuộc trao đổi, mua bán với Xuân Tóc Đỏ: “ông Phán cứ khóc oặt người đi, mãi không thôi” “chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái giấy bạc năm đồng gấp tư” … Cảnh hạ huyệt đã một lần nữa vạch trần bộ mặt giả dối, đểu cáng của lũ con cháu.

Tác phẩm tạo được tình huống trào phúng đặc sắc, từ cái chết của cụ cố tổ và đám ma to tát lũ con cháu tổ chức đã vạch trần bộ mặt xấu xa của đám con cháu cũng như những kẻ bên ngoài gia đình. Ngôn ngữ, giọng điệu trào phúng đặc sắc: “Thật là một đám ma to tát”, “chết một cách bình tĩnh” “hai cái tội nhỏ một cái ơn to”,… 

Cách so sánh hài hước: Từ chối việc chạy chữa như những vị danh y biết tự trọng… Sử dụng những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng để từ đó làm bật lên tiếng cười. Ngoài ra các thủ pháp cường điệu, nói ngược, những lời bình luận hài hước được vận dụng linh hoạt làm bật tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

Qua đoạn trích Hạnh phúc một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần, phê phán bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị đương thời thông qua hình ảnh của một gia đình có tang. Réo lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận người Việt Nam cả hôm qua và ngày nay. Đồng thời qua trích đoạn cũng thấy được tài năng trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng qua tình huống, ngôn ngữ và giọng điệu châm biếm, trào phúng đặc sắc.

Xem Clip Review, Chia Sẻ Thông Tin Đáng Chú Ý

✅ Top Đánh Giá ⭕ Dịch Vụ Tốt
✅ Top Review Sản Phẩm Tốt
✅ Top Bình Luận Tin Tức Mới
✅ Top Chia Sẻ Kiến Thức Hay
✅ Top Trường Hợp Đúng và Sai
Rate this post

Related Posts

Để lại một bình luận